Tuyến 1: Hành trình lên nơi khởi nguồn sự sống
- Miếu Làng Đán
Miếu Làng Đán nằm ở thôn Đông Tinh, xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, trên một cánh đồng karst rộng lớn với các chóp, tháp đá vôi sót nằm rải rác, điển hình cho một “cảnh quan catxtơ già” khá hiếm trên Cao nguyên đá Đồng Văn. Miếu là nơi thờ 5 vị Bồ Tát có công với người dân trong vùng.
Truyền thuyết dân gian kể rằng, từ thuở núi rừng còn âm u, muông thú còn nhiều, có một nhóm người Tày, Nùng đã tìm đến khu đất quang đãng, bằng phẳng, phì nhiêu này để làm ăn sinh sống. Nhờ mưa thuận gió hòa và chăm chỉ làm ăn nên mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no. Một ngày nọ có giặc đến cướp bóc, sát hại dân lành, tai ương nhiều không kể xiết, tiếng than khóc đến tận trời xanh. Dịp Tết Thanh minh, trời đất trong sáng, Tam giới mở cửa, các vị Bồ Tát du ngoạn bốn phương thấy chuyện bất bình đã ra tay dẹp giặc, cứu giúp dân làng. Sau đó các vị còn chỉ cho người dân cách trồng ngô, lúa, rau và cho họ giống củ cải trắng. Để tỏ lòng biết ơn, dân làng đã lập miếu thờ phụng 5 vị Bồ Tát và đặt tên là Miếu làng Đán.
Hàng năm vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch dân làng lại tổ chức lễ hội Làng Đán, dâng các loại sản vật để ghi nhớ công đức của các vị Bồ Tát và cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân an vật thịnh.
- Thạch Sơn Thần
Khởi đầu hành trình lên “nơi khởi nguồn sự sống”, ngay sau khi vượt qua dốc Bắc Sum hùng vĩ lên xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, du khách sẽ làm quen với một số điểm di sản, cả địa chất lẫn văn hóa, thật đáng ngạc nhiên, đều liên quan đến sự khởi đầu. Chẳng hạn, đó là “Thạch Sơn Thần” – những vị thần núi linh thiêng, uy nghi trấn giữ nơi cửa ngõ CVĐC. Thực chất là một cụm những cột đá vôi cao và rộng khoảng 10m, dài khoảng 20-25m, nổi cao một cách khá kỳ lạ trên một cánh đồng rộng, khá bằng phẳng và rất phì nhiêu, được người dân địa phương trồng ngô lúa và các loại hoa mầu khác quanh năm.
Rải rác trên cánh đồng cũng có thể thấy những khối núi đá vôi dạng tháp, thấp nhỏ tương tự, có khi chỉ còn hơi nhô khỏi bề mặt cánh đồng. Người ta gọi chúng là những thể đá vôi sót; cánh đồng với những thể đá vôi sót như thế gọi là cánh đồng karst; và toàn bộ cảnh quan kể trên là đại diện điển hình cho giai đoạn già – giai đoạn cuối cùng của một quá chu rình tiến hóa karst. Đáng ngạc nhiên là trên khắp CVĐC Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn với rất nhiều diện lộ đá vôi cùng rất nhiều dạng địa hình thì cảnh quan karst già lại khá hiếm gặp, hầu như chỉ thấy ở khu vực xã Quyết Tiến và Thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ.
“Thạch Sơn Thần” khác một chút so với các khối đá vôi dạng tháp khác – chúng ở dạng các cột đá bị các khe hẹp dựng đứng ngăn cách. Có thể chúng đã cùng thuộc một khối đá vôi sót nhưng bị một hệ thống khe nứt thẳng đứng cắt xẻ. Do tác động hòa tan của nước mưa mà chúng rộng dần ra như hiện nay.
- Đền Bình An (xã Quyết Tiến)
Đền Bình An nằm ở thôn Lùng Thàng, xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, chỉ cách đường cái lớn một vài bước chân, trên một trong những tháp đá vôi còn sót lại rải rác trên “cánh đồng karst” khá bằng phẳng và rộng rãi.
Đền vốn chỉ là một miếu thờ nhỏ do đồng bào Dao lập nên từ năm 1807 để thờ thần Trụ Địa – vị thần phù hộ và che chở cho dân bản khỏi thiên tai, dịch bênh phá hoại mùa màng và những điều tà ác. Lễ hội đền Bình An diễn ra vào ngày mùng 2 tháng 8 âm lịch hàng năm. Người dân tổ chức dâng lễ vật để tỏ lòng biết ơn, ghi nhớ công đức của các vị thần và cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, người dân có cuộc sống ấm no.
Đến năm 2015, đền được duy tu tôn tạo khang trang với tổng diện tích 710m2. Ngoài những mục đích ban đầu kể trên, ngày nay du khách đến với CVĐC Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn còn ghé thăm đền với mong muốn được bình an và may mắn trong suốt hành trình tham quan, khám phá của mình.
Ngoài dâng lễ cầu an, từ sân đền du khách còn có thể chiêm ngưỡng quang cảnh xung quanh – một đại diện điển hình, nhưng khá hiếm gặp, cho giai đoạn karst già trên Cao nguyên đá Đồng Văn
- Nhà văn hóa cộng đồng dân tộc Bố Y (xã Quyết Tiến)
Bố Y là một trong số những dân tộc ít người nhất trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, sinh sống chủ yếu ở một số tỉnh miền núi, biên giới phía Bắc. Tập trung đông nhất là ở thôn Nậm Lương, xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang với khoảng 700 người. Tại đây người Bố Y vẫn lưu giữ được bản sắc văn hóa truyền thống, độc đáo của dân tộc mình như truyền thống “phụ quyền trong gia đình”, phong tục cưới hỏi, nếp sinh hoạt thường nhật, cách ăn ở, nói năng, trang phục, làn điệu dân ca và các lễ hội như: Lễ tết, lễ tang…
Để giữ gìn, bảo tồn những giá trị truyền thống văn hóa vật thể và phi vật thể của người Bố Y, góp phần xây dựng Nậm Lương thành một làng văn hóa du lịch tiêu biểu trong khu vực CVĐCTC Cao nguyên đá Đồng Văn, nhà văn hoá cộng đồng dân tộc Bố Y đã được xây dựng năm 2015, theo mẫu kiến trúc truyền thống: nhà 5 gian, mỗi gian rộng 3,6m, nhịp 6m, hiên rộng 1,8m, tường trình bằng đất, mái ngói âm dương.
Nhà văn hoá cộng đồng dân tộc Bố Y ở Nậm Lương là nơi sinh hoạt chung của người dân, nơi diễn ra các buổi tập và trình diễn văn nghệ, nghề truyền thống. Đồng thời cũng là không gian trưng bày những giá trị văn hóa của dân tộc Bố Y với khoảng hơn 100 hiện vật và hình ảnh về các đồ dùng sinh hoạt, văn hoá vật thể, để giới thiệu tới du khách một cách khái quát về đời sống, lao động sản xuất và tinh thần của dân tộc Bố Y trên CVĐCTC Cao nguyên đá Đồng Văn.
- Cổng trời Quản Bạ
Cổng trời Quản Bạ thuộc địa phận xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, cách Thành phố Hà Giang khoảng 43km về phía Bắc. Nằm ở độ cao 1500m so với mực nước biển, đây là điểm cao nhất trên cung đường từ Hà Giang lên Quản Bạ. Tại đây, năm 1939 người Pháp đã cho dựng lên một cánh cửa khổng lồ bằng gỗ nghiến dày 15cm án ngữ con đường độc đạo lên Cao nguyên đá Đồng Văn. Một thời, sau cánh cổng này là một “thế giới” khác – “Vùng tự trị của người Mèo”, gồm các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Hiện nay không còn dấu tích của cánh cổng gỗ đó nữa.
Nếu ví Cao nguyên đá Đồng Văn là một “Thiên đường đá” thì ”Cổng Trời Quản Bạ” chính là cánh cổng dẫn dắt bước chân của du khách vào chốn Thiên đường này. Đứng trên Cổng Trời, du khách có thể phóng tầm mắt bao quát cả thung lũng Tam Sơn rộng lớn – được thành tạo do hoạt động của đứt gãy Quản Bạ trong quá khứ – được bao quanh bởi những dãy núi trùng trùng điệp điệp. Trong thung lũng, ngoài thị trấn Tam Sơn xinh đẹp yên bình, là rải rác các tháp, nón karst, những cánh đồng lúa hoặc hoa màu khi xanh mướt khi rực rỡ sắc vàng… Nổi bật giữa thung lũng là 2 chóp nón đá vôi có hình dạng giống hệt đôi gò bồng đảo của người thiếu nữ – “Núi Đôi Cô Tiên” – một cảnh quan độc nhất vô nhị vô cùng hấp dẫn mà thiên nhiên ban tặng cho nơi đây.
Tới đây vào ngày nắng đẹp, biển mây bồng bềnh dưới chân, du khách sẽ được tận hưởng cảm giác như đang ở chốn bồng lai tiên cảnh và mọi lo âu mệt mỏi thường nhật dường như tan biến.
- Trạm thông tin Quản Bạ
Được biết đến như điểm đón khách đầu tiên khi lên Công viên địa chất, Trạm thông tin du khách huyện Quản Bạ đang được thay đổi mỗi ngày để đáp ứng được nhu cầu về các sản phẩm đặc sản địa phương, về thông tin du lịch…
Với sân đỗ cùng sức chứa tối đa 50 xe du lịch lớn nhỏ, đáp ứng được phần lớn các nhu cầu của du khách về mua sắm, nghỉ ngơi, thông tin du lịch, hiện nay Trạm thông tin du khách huyện Quản Bạ là một trong những điểm dừng nghỉ có sức chứa lớn nhất nhì tại khu vực Công viên địa chất.
Tại đây, du khách có thể thưởng thức hoàn toàn miễn phí các sản vật địa phương như: Rượu ngô Thanh Vân, Mật ong bạc hà, Dược liệu truyền thống cuả người Dao, các loại Trà shan tuyết cổ thụ… tại quầy thử sản phẩm. Du khách cũng có thể dễ dàng kiếm tìm cho mình và người thân những món quà mang đậm tính truyền thống như các sản phẩm làm bằng tay của HTX dệt lanh Cán Tỷ, các loại sâm quý, Trà ngon, và các loại nông sản tiêu biểu của địa phương như: Nấm hương, mộc nhĩ, chè giảo cổ lam..
Đây là điểm dừng chân sau một chặng đường dài từ thành phố Hà Giang, nơi quý khách có thể ngồi thư giãn, thưởng thức các loại Trà, cafe, Trà gừng… tuyệt hảo, cũng là nơi du khách đắm mình sự nên thơ của những dãy núi chập trùng, phong cảnh Núi đôi thơ mộng và toàn cảnh thị trấn Tam Sơn yên bình trong bầu không khí tươi mát, trong lành.
Đến với Trạm thông tin du khách huyện Quản Bạ, quý khách còn được cung cấp những thông tin du lịch chính xác nhất bởi đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp, nhiệt tình. Điểm dừng chân tại Trạm thông tin du khách huyện Quản Bạ là một trong những điểm dừng sẽ làm hài lòng tất cả những du khách đến với Công viên địa chất.
– Địa chỉ: Thôn Nà Khoang 2, xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang
– Trạm trưởng: Tống Quang Khải
– Điện thoại: 0987.995.888
– Email: quanba.info@gmail.com
- Hợp tác xã rượu ngô Thanh Vân
Trên CVĐCTC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn, rượu ngô là một đặc sản hầu như ai cũng biết. Nhà nhà nấu rượu ngô, người người uống rượu ngô. Rượu ngô khiến cho cái lạnh ở đây bớt lạnh hơn, cái đói bớt đói hơn, niềm vui được nhân thêm, con người đối xử với nhau chan hòa hơn – có thể nói là cả một nền văn hóa rượu ngô, hay nói cách khác, rượu ngô có thể được xếp vào hạng di sản địa văn hóa.
Tùy vào kỹ thuật, tùy vào vùng miền mà Cao nguyên đá Đồng Văn có tới hàng chục, thậm chí hàng trăm loại rượu ngô. Thế nên có câu chuyện đi chợ phiên chỉ cần thử rượu từ đầu đến cuối chợ là đã đủ say. Trong hàng trăm loại rượu ngô đó đáng nhắc tới có sản phẩm của Hợp tác xã Thanh Vân.
Thanh Vân là một xã thuộc huyện Quản Bạ, cư dân chủ yếu là người Mông và Nùng. Đủ đất, đủ nước, khí hậu ôn hòa khiến cho canh tác nông nghiệp ở đây khá thuận lợi. Sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là ngô, và cũng chính từ ngô, nguồn nước tinh khiết, men được làm từ 36 loại lá quý trên rừng và bí quyết gia truyền, người dân địa phương đã làm ra hương vị đặc trưng, riêng có cho rượu ngô Thanh Vân.
Điều đáng nói là một số hộ dân đã tự cùng nhau lập thành Hợp tác xã, chuyển từ nấu rượu thủ công thành dây chuyền sản xuất hiện đại, góp phần kiểm soát, cải thiện chất lượng cũng như bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Sản phẩm đa dạng, bao bì, nhãn mác đẹp mắt, rượu ngô Thanh Vân không những được tiêu thụ ở địa phương mà còn được bán ở nhiều tỉnh khác, thậm chí xuất khẩu sang cả Trung Quốc, được nhận nhiều giải thưởng quốc gia cũng như của tỉnh. Hợp tác xã rượu ngô Thanh Vân đã vinh dự trở thành một đối tác của CVĐCTC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn.
- Mặt trượt đứt gãy Tam Sơn
Thung lũng Tam Sơn, kéo dài theo phương tây bắc-đông nam, là sản phẩm của hoạt động đứt gãy được cho là bắt đầu từ cách ngày nay khoảng 5 triệu năm. Kết quả là các lớp đá vôi vốn được hình thành dưới đáy biển trong kỷ Devon (khoảng 400 triệu năm trước) bị cà nát, dập vỡ mạnh, có chỗ gần như thành bột. Cộng với hoạt động hòa tan, rửa lũa của nước, địa hình khu vực này dần bị thấp hẳn xuống, trở thành một cánh đồng karst, với đôi chỗ rải rác nhô lên một số tháp, chóp karst sót, trong đó có cặp “Núi đôi Cô Tiên” nổi tiếng đã đi vào truyền thuyết.
Bằng chứng trực tiếp cho hoạt động đứt gãy ở đây chính là “Mặt trượt đứt gãy Tam Sơn” ở ngay vệ đường, gần như đối diện với “Núi đôi Cô Tiên”. Trong đá vôi bị cà nát, lộ ra một bề mặt dốc đứng, phẳng lỳ mầu nâu đỏ. Đó chính là “mặt trượt” của một đứt gãy nhỏ – một đứt gãy “thành phần” của cả đới đứt gãy lớn đã tạo nên thung lũng Tam Sơn kia. Mặt trượt hình thành do “hai cánh” của đứt gãy chuyển dịch ngược chiều nhau, xiết vào nhau mà thành. Màu nâu đỏ trên “mặt trượt đứt gãy” là màu của oxyt sắt, lắng lại từ quá trình tuần hoàn của nước.
“Mặt trượt đứt gãy Tam Sơn” thêm một lần nữa cho thấy Mẹ Thiên nhiên mạnh mẽ biết chừng nào – nghiền đá thành bột, cắt qua đá ngọt tựa như dao nóng cắt qua miếng bơ! Hoạt động của đứt gãy Tam Sơn đã làm nên thung lũng Tam Sơn phì nhiêu, phong phú cả đất lẫn nước, để người dân bản địa sau này tìm đến nương tựa, tạo nên những bản sắc văn hóa đậm đà cả trong truyền thuyết lẫn sinh hoạt thường nhật của mình.
- Núi đôi Cô Tiên
Thung lũng Tam Sơn được cấu tạo chủ yếu bởi các đá dăm kết vôi dolomit gắn kết kém – sản phẩm của hoạt động đứt gãy trong quá khứ. Các đá này còn bị tác động bởi các quá trình rửa trôi, bóc mòn…, làm nên các tháp, nón rải rác trên cánh đồng karst. Kỳ diệu nhất trong số đó là một kiệt tác của thiên nhiên – “Núi Đôi Cô Tiên” – giữa một vùng đá vôi rộng lớn, địa hình lởm chởm, hiểm trở bỗng nổi lên một cặp đồi tròn trịa, cân đối do sự rửa trôi, bóc mòn đều đặn các đá kể trên mà thành. Ngoài vẻ đẹp lãng mạn, “Núi Đôi Cô Tiên” còn rất có ý nghĩa về khoa học và giáo dục bởi cơ chế thành tạo cũng như hình thái hiếm có của nó.
“Núi Đôi Cô tiên” gắn với một truyền thuyết về tình yêu giữa một chàng trai người Mông thông minh, tuấn tú và nàng tiên Hoa Đào xinh đẹp. Mối tình của họ đơm hoa kết trái nhưng thượng giới và trần gian cách biệt, nàng phải về trời khi con còn thơ dại. Thương chồng một mình nuôi con vất vả, con thơ thiếu bầu sữa mẹ, nàng đã để lại đôi nhũ hoa của mình dưới hạ giới. Tương truyền nhờ dòng sữa của nàng mà vùng đất này khí hậu vô cùng mát mẻ, cỏ cây, hoa trái quanh năm, mùa nào thức nấy, thơm ngon lạ thường. Nước mắt khóc thương chồng con của nàng tiên biến thành dòng sông Miện xanh ngắt, mơ màng ôm lấy cả rẻo đất phía sau cổng trời huyền thoại. Những cánh đồng phì nhiêu dưới chân “Núi Đôi Cô Tiên” thay đổi mầu sắc theo mùa hệt như Cô Tiên thay áo: áo xanh – khi cánh đồng lúa đang thì con gái; bộ cánh vàng lộng lẫy – mùa lúa chín; bộ nâu sồng – bắt đầu vụ cày ải mới…, nhưng cặp nhũ hoa thì lúc nào cũng căng tràn sức sống.
- Làng văn hóa Nặm Đăm
Làng văn hóa du lịch cộng đồng Nặm Đăm nằm ở trung tâm xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ. Được bao bọc bởi rừng nguyên sinh và ruộng bậc thang tuyệt đẹp, đây là nơi sinh sống của người Dao Chàm hay Dao áo dài. Người dân ở đây vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện ở những phong tục tập quán, nghi lễ truyền thống, nếp sinh hoạt thường nhật như dân ca, dân vũ, trang phục, kiến trúc nhà ở, trò chơi dân gian và đặc biệt là các lễ hội. Tiêu biểu như lễ cấp sắc – nghi lễ không một người đàn ông Dao nào bỏ qua – được cấp sắc mới được coi là đã trưởng thành.
Nặm Đăm là làng đầu tiên phát triển loại hình du lịch cộng đồng ở Quản Bạ từ năm 2012. Những ngôi nhà trình tường được tu sửa, vừa giữ được kiến trúc truyền thống, vừa đáp ứng đủ các dịch vụ cơ bản (nhà vệ sinh có nước nóng-lạnh, chăn màn sạch sẽ, món ăn ngon…). Người dân mặc trang phục truyền thống, thân thiện và cởi mở, ai cũng là hướng dẫn viên du lịch.
Đến với Nặm Đăm, du khách sẽ có cơ hội trải nghiệm những sinh hoạt thường nhật cùng người dân bản địa: làm nương, nấu và thưởng thức các món đặc sản của địa phương, các điệu múa truyền thống… Ngoài ra còn có dịch vụ tắm lá thuốc, trồng, chế biến các loại thảo dược truyền thống – cũng là nét hấp dẫn không thể bỏ qua.
Năm 2017, một trong những nhà du lịch cộng đồng ở Nặm Đăm đã được vinh dự nhận danh hiệu “ASEAN Homestay” do Tổng thư ký ASEAN và Bộ trưởng du lịch các quốc gia thành viên chứng nhận.
- Động Lùng Khúy
Nằm ở thôn Lùng Khúy, xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, được mệnh danh là “Cao nguyên đệ nhất động”, động Lùng Khúy (rồng trong khe đá) được phát hiện đầu năm 2015, chính thức mở cửa đón khách du lịch ngày 12 tháng 11 cùng năm.
Động Lùng Khúy phát triển trong đá vôi được thành tạo ở vùng biển cổ cách ngày nay hơn 400 triệu năm. Xung quanh động là địa hình karst dạng cụm lũng-đỉnh với nhiều thung lũng treo, hố sụt, thềm travectanh… trên bề mặt san bằng 850-1100m. Động phát triển theo đứt gãy phương TB-ĐN với phòng hang dài và rộng, ít ngóc ngách, nhiều nhũ, măng, cột, rèm, riềm đá… đẹp mê hồn, đủ mọi hình dáng, được liên tưởng với những thạch vương trụ, sư tử đá, thác chín tầng hay những dải lụa, mái tóc mềm mại, óng ả của các thiếu nữ…. Nếu để ý, du khách có thể còn nghe được giai điệu ngân nga, trầm bổng của những giọt nước đang tí tách rơi xuống từ trần hang. Đặc biệt trong động còn có “Giếng Tiên” linh thiêng đã đi vào truyền thuyết. Trong các dịp lễ, tết, người dân xa, gần đều đến đây xin nước, cầu nguyện cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, sức khỏe, hạnh phúc, sinh con đẻ cái được như ý.
Theo kết quả khảo sát của Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản năm 2016 động Lùng Khúy dài 517,5m, sâu 31m, tổng diện tích 14.983m2, có 4 cửa ở các khoảng độ cao 875-891m trên mực nước biển.
Hiện tại Ban quản lý CVĐC Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn đang xây dựng tuyến đi bộ từ Động Lùng Khúy xuống rừng đá Cán Tỷ, làng văn hóa du lịch Nặm Đăm, HTX dệt lanh Cán Tỷ…
- Hợp tác xã thổ cẩm Cán Tỷ
Xã Cán Tỷ (huyện Quản Bạ) của đồng bào dân tộc Mông nằm bên “hẻm vực Sông Miện” với các vách đá vôi dựng đứng do hoạt động phá hủy của “đứt gãy Sông Miện”. “Cán” nghĩa là khô, “Tỷ” nghĩa là đất, “Cán Tỷ” nghĩa là “vùng đất khô”, theo truyền thuyết do bị các “con rồng” (các dòng sông, suối, trong đó có sông Miện) hút cạn nước.
Người Mông thường sống trên các vùng núi cao, hẻo lánh. Ngoài cây lương thực chính là cây ngô họ còn trồng lanh lấy sợi dệt vải làm quần áo. Cuộc sống của họ gắn liền với cây lanh, sống cùng với lanh và chết cũng phải có lanh mang theo. Nền văn hóa của người Mông đầy sức sống và rất gần gũi với thiên nhiên. Điều đó được thể hiện qua các hoa văn thêu, may hoặc in trên trang phục, thay lời truyền đạt cảm xúc hoặc giao tiếp của họ. Với người Mông ở Cán Tỷ (Quản Bạ) thì hoa văn thường là dấu chân voi, dấu chân lợn, hình hoa hồi, hoa bí…, đặc trưng cho một “vùng đất khô”.
Hợp tác xã thổ cẩm Cán Tỷ được thành lập năm 2010, tạo việc làm cho 30 phụ nữ từ các thôn bản lân cận. Bên cạnh những sản phẩm thổ cẩm với hoa văn truyền thống còn có nhiều sản phẩm mới, hoa văn cách điệu hơn, hiện đại hơn. Sản phẩm thổ cẩm của Hợp tác xã rất được ưa chuộng, hiện đã góp mặt ở nhiều thị trường trong nước và thế giới, ngoài nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống còn góp phần bảo tồn và giữ gìn giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của cộng đồng người Mông ở khu vực này.
- Rừng nghiến Cán Tỷ
Thôn Sín Suối Hồ, xã Cán Tỷ (huyện Quản Bạ) của đồng bào dân tộc Mông nằm bên “hẻm vực Sông Miện” với các vách đá vôi dựng đứng xen với các thung lũng treo, thềm tích tụ travertine… ở lưng chừng vách, tất cả đều được cho là do hoạt động của “đứt gãy Sông Miện”. Cũng ở đây còn có thể quan sát thấy một ranh giới tiếp xúc rất lý thú, hình thành trước đó, giữa đá vôi cổ hơn (khoảng 400 triệu năm trước) với đá lục nguyên (cát, bột, sét kết) trẻ hơn (khoảng 250 triệu năm trước).
Đặc biệt là trên thềm tích tụ travertine ở Sín Suối Hồ còn có rừng gỗ nghiến cổ thụ với hàng chục cây, chu vi thân tới 5,1-1,6m. Cây nghiến thường mọc ở các vùng đá vôi – những nơi thường rất cằn cỗi, thiếu cả đất lẫn nước, những yếu tố thiết yếu nhất để cây cối có thể sinh trưởng. Gỗ nghiến rất cứng chắc, được xếp vào hàng “tứ thiết” của Việt Nam, có lẽ là do được chắt chiu trong thời gian rất dài, hàng nhiều chục, thậm chí hàng trăm năm. Theo các nhà khoa học thì cây nghiến ở đây là loại nghiến đỏ (Exentrodendron tonkinense Gagnep.), một trong những quần thể còn hiếm gặp hơn ở Việt Nam, có tuổi khoảng 250 năm.
Trong hoàn cảnh sống thiếu thốn đến như vậy mà dân bản vẫn còn giữ được rừng nghiến này thì chắc chắn đối với họ đó là một khu rừng thiêng, cùng với họ thách thức thời gian và mọi điều kiện khắc nghiệt của Cao nguyên đá. Rừng nghiến cổ thụ Cán Tỷ xứng đáng biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của con người trên Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn.
- Tường thành Cán Tỷ
Nằm ngay bên đường từ Quản Bạ đi Yên Minh, thành lũy Cán Tỷ được xây dựng từ thời Pháp thuộc, vào khoảng đầu thế kỷ XX. Đây là một trong nhiều công trình quân sự mà quân đội Pháp đã xây dựng trong khu vực Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn ngay từ khi người Pháp bắt đầu chiếm đóng Hà Giang năm 1887.
Di tích lịch sử này bao gồm một bức tường phòng thủ dài khoảng 60 mét, cao 3 mét, một căn phòng dùng để phòng thủ hình tam giác và một pháo đài. Một đơn vị lính nhỏ đã từng sống ở đó, gồm cả lính Pháp và lính địa phương. Hài hòa với cảnh quan thiên nhiên, hệ thống lô cốt và tường thành Cán Tỷ nhằm khống chế con đường chiến lược dọc theo hẻm vực Sông Miện, nối liền hai huyện Quản Bạ và Yên Minh. Ở vị trí đắc địa như thế, có thể nói, một người có thể địch muôn người.
Kết hợp với các di sản khác như rừng đá, hẻm vực Sông Miện, ranh giới địa chất giữa đá vôi cổ hơn và các đá lục nguyên trẻ hơn, di chỉ khảo cổ thời kỳ đá cũ, hay Hợp tác xã thổ cẩm Cán Tỷ của người Mông v.v., khu vực này đã trở thành điểm dừng chân lý thú của Công viên Địa chất.
- Trạm thông tin Yên Minh.
Yên Minh là huyện thứ 2 của CVĐC Cao nguyên đá Đồng Văn nằm trên tuyến quốc lộ 4C, cách huyện Quản Bạ 54km và cách huyện Đồng Văn 48km. Yên Minh nằm ở vị trí trung tâm của CVĐC Cao nguyên đá Đồng Văn.
Yên Minh có tổng diện tích tự nhiên là trên 770 nghìn km2 , phía Bắc giáp với Trung Quốc, với 29km đường biên giới; phía Nam giáp huyện Bắc Mê, phía Tây giáp huyện Quản Bạ, Vị Xuyên; phía Đông giáp huyện Đồng Văn. Huyện Yên Minh có 17 xã và 1 thị trấn. Tổng số dân là 99.108 người, là nơi sinh sống của 17 dân tộc anh em. Trong đó, đông nhất là dân tộc Mông chiếm 57,5% (Niên giám thống kê 2020).
Trạm thông tin du khách huyện Yên Minh được đặt tại thôn Ngán Chải, xã Lao Và Chải, huyện Yên Minh. Trạm bao gồm 2 khu: Khu trưng bày giới thiệu, thuyết minh và cung cấp các thông tin về Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn cho du khách và các đối tượng có nhu cầu tìm hiểu về Công viên địa chất và Khu làm việc của cán bộ, viên chức trạm.
Sau một chuyến hành trình tương đối dài từ thành phố Hà Giang, qua Quản Bạ, đến với trạm thông tin du khách khu vực huyện Yên Minh, du khách sẽ được trải nghiệm những cung đường với những đồi thông cao vút được ví như Đà Lạt thu nhỏ. Đứng từ trạm, du khách có thể ngắm mặt trượt đứt gãy Lao Và Chải, một địa hình phổ biến trên khu vực Công viên địa chất.
Đến với Trạm thông tin du khách huyện Yên Minh, du khách còn được cung cấp những thông tin du lịch chính xác nhất bởi đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp, nhiệt tình. Điểm dừng chân tại Trạm thông tin du khách khu vực Yên Minh là một trong những điểm dừng sẽ làm hài lòng tất cả những du khách đến với Công viên địa chất.
– Địa chỉ: Thôn Ngán Chải, xã Lao Và Chải, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang
– Phụ trách trạm: Vũ Hồng Phong
– Điện thoại: 0917.872.000
– Email: yenminh.info@gmail.com
Tuyến 2: Giai điệu cuộc sống trên miền đá
- Sách đá Vần Chải
Một cảnh tượng tráng lệ với hàng trăm chóp nón đá vôi lô xô theo địa hình. Nhưng bên trong từng chóp nón đó cũng có nét đặc biệt riêng – hàng chục, hàng trăm lớp đá vôi mỏng lộ ra, nghiêng thoải đều đặn hết về một bên. Cũng vì thế mà sườn các chóp nón kể trên một phía cũng khá thoải trong khi phía đối diện lại khá dốc. Các nhà khoa học gọi đó là địa hình đơn nghiêng, hay địa hình mái nhà lệch. Một số người khác lại gọi đó là những cuốn sách đá – từng lớp đá mỏng chính là những trang giấy khổng lồ của cuốn sách đá mang tên “Lịch sử Trái Đất”.
Khoảng hơn 400 triệu năm trước, vào kỷ Devon, khu vực này vẫn ngập sâu dưới mực nước biển. Các loại đá trầm tích carbonat khá giầu sét hình thành nên cảnh quan mà giờ đây chúng ta đang chiêm ngưỡng được hình thành dưới đáy biển. Nếu điều kiện trầm tích ổn định thì sẽ thành các lớp dầy, có khi tới hàng chục, hàng trăm mét, ngược lại thì sẽ chỉ tạo thành những lớp mỏng, có khi chỉ vài cm, lúc đầu gần như nằm ngang. Nhưng rồi bối cảnh kiến tạo thay đổi, đại dương trở thành lục địa, từ đáy biển các lớp trầm tích nổi dần lên thành đất liền. Hơn thế nữa, do xô đẩy, va chạm mà một phía được nâng lên nhiều hơn so với phía còn lại, tạo thành các lớp đá nghiêng đều về một bên. Các quá trình địa chất tiếp theo như rửa trôi, bóc mòn, đứt gãy… đã dần tạo nên các chóp nón, để lộ ra các sườn núi đơn nghiêng như những “trang sách đá”.
Các nhà khoa học hiện đang lật giở từng “trang sách đá” này để xác lập lại môi trường hình thành đá, đặc điểm cổ khí hậu, cổ sinh vật…, làm sáng tỏ lịch sử phát triển Trái Đất ở khu vực này trong quá khứ.
Cuốn “sách đá Vần Chải” không chỉ là một trong những cảnh quan đẹp và có giá trị khoa học của Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn. Nó còn khá hiếm – cảnh quan tương tự cũng chỉ gặp ở một nơi nữa gần Cột cờ Lũng Cú, cũng thuộc huyện Đồng Văn.
- Bãi Hải cẩu Vần Chải
Hãy dùng trí tưởng tượng của mình.
Bạn sẽ phát hiện ra ngay một đàn hải cẩu trên sườn núi ở bản Vần Chải cạnh đường cái đi đến Thị trấn huyện lỵ Đồng Văn. Dường như chúng đang chen chúc nhau cố gắng trườn về một hướng để tắm nắng trên bãi biển thanh bình. Những tấm lưng của chúng dường như bóng nhẫy và đen sẫm hơn dưới làn mưa; lại nhễ nhại và óng ánh hơn vào những ngày nắng đẹp.
Vật liệu mà Thiên nhiên dùng để chế tác ra “đàn sư tử biển” là một tập đá vôi phân lớp dày, màu xám sáng, tinh khiết hơn so với những tập đá vôi phân lớp mỏng hơn ở bên cạnh. Đặc tính phân lớp, thành phần của đá và đặc điểm các lực kiến tạo đã tạo ra một hệ thống khe nứt đẳng hướng, vuông góc với mặt lớp; thúc đẩy quá trình bóc mòn, rửa lũa và phong hóa đá vôi, tạo nên di sản địa mạo đặc sắc này.
Cảnh quan “Đàn Sư Tử Biển Vần Chải” gợi mở về môi trường biển hình thành nên loại đá vôi này cách ngày nay khoảng 250 triệu năm. “Đàn sư tử biển” cùng với “nền văn hóa đá” của cư dân bản địa, đặc trưng bởi nhà trình tường, hàng rào đá và nương đá đã góp phần tạo nên điểm di sản độc đáo này của Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn.
- Dốc Thẩm Mã
Dốc Thẩm Mã dài khoảng 5km, kéo từ địa phận xã Vần Chải lên xã Lũng Thầu, huyện Đồng Văn ở độ cao khoảng 1500m trên mực nước biển với nhiều (9) khúc cua uốn lượn giữa “hai bức tường đá” – dấu tích của một đứt gãy trong quá khứ. Sở dĩ có tên như vậy vì tương truyền rằng ngày xưa người ta cho ngựa thồ hàng từ dưới chân dốc lên, con ngựa nào lên đến đỉnh dốc mà vẫn còn khỏe thì giữ lại nuôi, con nào yếu thở không ra hơi thì đã có chảo thắng cố đợi sẵn.
Trên cung đèo này có rất nhiều di sản địa chất lý thú, ấn tượng nhất có lẽ là “vách đá ảo ảnh” – tưởng gần mà lại rất xa – hóa ra Mẹ Thiên nhiên đánh lừa thị giác con người. Song hành cùng với chúng là “nền văn hóa đá” của cư dân bản địa với các ngôi nhà trình tường, hàng rào đá và đặc biệt là kỹ năng canh tác hốc đá của người Mông. Đây là loại hình canh tác nông nghiệp đặc thù, ở nơi đá nhiều hơn đất như Cao nguyên đá Đồng Văn. Người ta tận dụng từng chút đất ít ỏi trong các hốc đá, thậm chí nhiều khi còn phải cõng đất từ nơi khác lên đổ vào các hốc đá, sau đó mới tra ngô, đậu và các loại hoa mầu khác. Ngoài ra họ còn thuần dưỡng và chăn nuôi được nhiều loại gia súc, gia cầm phù hợp với đặc điểm khí hậu và môi trường tự nhiên nơi đây.
Và cũng mảnh đất đó đã sản sinh ra những người con ưu tú, như anh hùng lượng lượng vũ trang Sùng Dúng Lù với chiến công tiễu phỉ những năm 50 của thế kỷ trước, không những là niềm tự hào của người Mông mà còn là niềm kính trọng của các dân tộc khác trên Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn.
- Làng văn hóa Lũng Cẩm
Thôn Lũng Cẩm thuộc xã Sủng Là, huyện Đồng Văn, bao gồm chủ yếu là đồng bào Mông cùng một số dân tộc ít người khác như Hoa, Lô Lô… Từ bao đời nay nó như một ốc đảo yên bình nằm trọn vẹn trong thung lũng Sủng Là tươi đẹp.
Kiến trúc nhà cửa, thôn bản; truyền thống canh tác và phong tục tập quán của cộng đồng người Mông ở thôn Lũng Cẩm tiêu biểu cho văn hóa truyền thống của người Mông ở Cao nguyên đá Đồng Văn. Thời thuộc Pháp, người dân Lũng Cẩm chỉ canh tác một vụ, cây trồng chủ yếu là cây thuốc phiện và cây ngô. Vào thời đó, thuốc phiện là nguồn thu nhập chính của người dân và nơi đây được biết đến như là một trong những thung lũng thuốc phiện nổi tiếng của Cao nguyên đá Đồng Văn với nhà thu mua và kho chứa thuốc phiện của ông Mua Súa Páo. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, người dân ở đây không trồng cây thuốc phiện nữa mà chỉ canh tác lúa, ngô, tam giác mạch, hoa, cây ăn quả và các loại cây rau, đậu… Vài năm gần đây, khi khách du lịch đến với Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn ngày càng đông hơn thì người dân ở bản Lũng Cẩm còn có thêm một nghề sinh kế mới, đó là trồng tam giác mạch thành vườn hoa cho du khách thưởng ngoạn, làm ra các sản phẩm mới từ cây lương thực này, như bánh tam giác mạch, rượu tam giác mạch…
Với sự hỗ trợ của các cấp chính quyền địa phương, cộng đồng các dân tộc đã và đang tiếp tục nỗ lực xây dựng Lũng Cẩm thành Làng Văn hóa Du lịch Cộng đồng Tiêu biểu – một điểm đến đầy thú vị và thơ mộng của Công viên Địa chất.
- Nhà truyền thống người Mông (Ngôi nhà quay phim Chuyện của Pao)
Đây là ngôi nhà cổ tiêu biểu cho kiến trúc truyền thống đặc trưng của dân tộc Mông ở thung lũng Sủng Là, xã Sủng Là, huyện Đồng Văn. Toàn bộ khu nhà là một tổ hợp kiến trúc hoàn chỉnh khép kín theo bốn hướng, chính giữa là sân trời. Nhà có tường trình bằng đất, mái lợp ngói máng âm dương, cửa gỗ thấp, bao quanh khuôn viên nhà là tường đá. Kiểu kiến trúc này rất thích nghi với điều kiện khí hậu và thời tiết vô cùng khắc nghiệt ở Cao nguyên đá Đồng Văn, đồng thời phù hợp với phong tục tập quán truyền thống của đồng bào dân tộc Mông.
Vào năm 1947, sau khi trở thành người giàu có nhất khu vực Sủng Là chủ yếu nhờ buôn bán thuốc phiện, ông Mua Súa Páo – một người Mông – đã xây dựng ngôi nhà này. Hiện nay, ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của ông Mua Sính Già – cháu nội của ông Mua Súa Páo. Ngôi nhà đã được chọn làm cảnh quay cho bộ phim “Chuyện của Pao” – bộ phim đoạt giải Cánh diều vàng năm 2005 của Hội Điện Ảnh Việt Nam. Năm 2013, UBND huyện Đồng Văn đã đầu tư nâng cấp tôn tạo ngôi nhà này theo nguyên tắc bảo tồn nguyên vẹn những nét kiến trúc truyền thống đặc trưng.
- Khủng hoảng sự sống toàn cầu ở Sủng Là
Cách đây khoảng 250 triệu năm, tại ranh giới giữa kỷ Permi (cuối đại Cổ sinh) và kỷ Trias (đầu đại Trung sinh) đã xảy ra cuộc khủng hoảng sự sống nghiêm trọng nhất trong lịch sử phát triển của thế giới sinh vật trên phạm vi toàn cầu. Cuộc khủng hoảng này – có tên khoa học là “Ranh giới thời địa tầng Permi – Trias” – đã làm tuyệt chủng khoảng 95% các loài sinh vật biển, 70% động vật có xương sống ở trên cạn và hàng loạt côn trùng. Đa dạng sinh học toàn cầu do vậy bị suy giảm nghiêm trọng tới mức 10 triệu năm sau sự sống trên Trái Đất mới được phục hồi.
Sự kiện tuyệt diệt này xảy ra ở quy mô toàn cầu nhưng dấu tích của nó để lại trong các lớp đá lại vô cùng hiếm hoi. Các nhà khoa học đưa ra một số cách lý giải cho nguyên nhân của sự kiện tuyệt diệt toàn cầu này là do va chạm giữa các mảng thạch quyển, va chạm thiên thạch, phun trào núi lửa, thay đổi khí hậu và đặc tính lý hóa của nước biển trên phạm vi toàn cầu…
“Ranh giới thời địa tầng Permi – Trias” ở Sủng Là đã và đang được các nhà khoa học Việt Nam và quốc tế nghiên cứu và xác lập. Đây là một di sản địa chất có giá trị khoa học cấp quốc tế của Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn. Nó, cùng với các giá trị văn hóa khác, làm nên ở Sủng Là một cụm di sản rất đáng dừng chân tìm hiểu.
- Hang Rồng Sảng Tủng
Hang Rồng (hay hang Lùng Thàng) ở xã Sảng Tủng, huyện Đồng Văn là một hang nước rất hấp dẫn bởi tính độc đáo và giá trị dân sinh của nó. Hang động thường phát triển trong đá vôi dạng khối khá thuần khiết, trong khi đó hang Rồng phát triển trong các lớp đá vôi xen kẽ đá sét bột kết nhiễm vôi phân lớp mỏng có tuổi khoảng 250-245 triệu năm trước, rất hiếm gặp ở Việt Nam cũng như trên thế giới.
Hang phát triển theo phương á kinh tuyến, cửa hang nhìn ra hướng khoảng 340o. Hang dài trên 200m, gồm hai tầng: Tầng trên khô với nhiều thạch nhũ đẹp. Tầng dưới có hành lang rộng trung bình 1-8m, trần hang cao khoảng 3-8m, thạch nhũ phát triển kém đa dạng hơn. Trong cùng là phòng hang với hồ nước rộng khoảng 200m2, trần cao khoảng 17m. Hang Rồng gắn liền với những truyền thuyết, phong tục tập quán và tín ngưỡng lâu đời của cư dân bản địa.
Hang được lắp hệ thống máy bơm từ năm 2003 để khai thác nước ngầm karst, phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân hai xã Sảng Tủng và Hố Quang Phìn.
Hang Rồng là một di sản hang động rất có giá trị của CVĐC TC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn.
- Địa hình mặt trăng Sa Phìn
Quá trình karst hóa trên CVĐCTC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn đã tạo nên nhiều dạng địa hình vô cùng phong phú như karst dạng tháp, dạng chóp nón xen thung lũng, hố sụt, rừng đá, hang động… và đặc biệt hơn là “địa hình mặt trăng” – kết quả của hiện tượng hoang mạc hóa đá, thể hiện điển hình nhất ở khu vực xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn.
Điều kiện khí hậu khô lạnh ở độ cao trên 1500m với lượng mưa ít, độ bốc hơi lớn; chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm rất lớn, nhất là về mùa hè; băng giá, sương muối nhiều về mùa đông… là những yếu tố đẩy nhanh quá trình phong hóa vật lý (cơ học), khiến đá vôi nhanh chóng bị nứt nẻ, vỡ nhỏ rồi bị trôi lăn, đổ lở, bào mòn sườn và hạ thấp dần đỉnh, mở rộng dần các thung lũng, tạo nên cảnh quan hoang mạc đá với các khối karst hình nón cân hoặc tháp lệch hết sức độc đáo. Đáng nói là ở Việt Nam cảnh quan karst độc đáo “Địa hình mặt trăng” – “hoang mạc đá” mới chỉ thấy lần đầu trên Cao nguyên đá Đồng Văn. Góp phần không nhỏ vào quá trình này có thể còn có hoạt động chặt phá rừng, hủy hoại thảm thực vật vốn phải khó và mất thời gian lắm mới có, của con người những năm chiến tranh một vài thập kỷ trước.
Thú vị ở chỗ cho dù là “địa hình mặt trăng” – “hoang mạc đá” thì cuộc sống nơi đây vẫn rực rỡ sắc mầu, phong phú âm điệu, thể hiện trong trang phục, tín ngưỡng và văn hóa dân gian của người dân trên miền đá. Và ngày nay khi cuộc sống của người dân đã dần được cải thiện, thì mầu xanh dường như đang dần trở lại với những địa hình Mặt Trăng mầu xám, khô khốc kể trên.
- Di tích kiến trúc nghệ thuật Nhà Vương
Dinh thự Nhà Vương là một kiệt tác kiến trúc nghệ thuật của Việt nam đã được công nhận là Di tích Lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia (Quyết định số 937-QĐ/BT ngày 23/7/1993).
Ông Vương Chính Đức (1865-1947) sinh ra trong một gia đình người Mông ở làng Pá Tró, xã Sà Phìn. Cuộc đời và sự nghiệp của ông đã để lại một dấu ấn đậm nét trong lịch sử vùng đất Đồng Văn. Thông minh vượt trội lại giỏi thổi khèn nên khi mới 30 tuổi, ông đã được người Mông ở vùng Sà Phìn-Phó Bảng suy tôn làm thủ lĩnh. Trên cơ sở độc chiếm nguồn lợi thuốc phiện của toàn xứ Đồng Văn, tiềm năng kinh tế và sức mạnh quân sự của Vương Chính Đức liên tục được củng cố, đủ khả năng đối phó với “thù trong” – là các thế lực khác đang tranh giành quyền lực, cát cứ ở đất Đồng Văn, và “giặc ngoài” – là triều đình nhà Thanh, các quân đội Pháp, Nhật, Tưởng…, để trở thành một thủ lĩnh người Mông giàu có, đầy quyền uy, thống lĩnh cả một vùng Đồng Văn rộng lớn. Sau hòa ước Pháp-Mèo (1913), khi sức mạnh quyền lực và kinh tế đạt tới đỉnh cao, Vương Chính Đức đã cho xây khu dinh thự này trong vòng 8 năm (từ cuối năm 1919 đến đầu năm 1928).
Sự hòa quyện tinh tế giữa phong cách kiến trúc cổ Trung Hoa đời Mãn Thanh với kiến trúc Mông độc đáo, sự kết hợp hài hòa giữa các vật liệu từ Vân Nam (Trung Quốc) với vật liệu địa phương gồm đá xanh, gỗ quý và ngói đất nung, dưới bàn tay tài hoa và con mắt thẩm mỹ của những người thợ xuất sắc đã cho ra đời kiệt tác nghệ thuật kiến trúc này.
Đến tham quan Nhà Vương, du khách chắc cũng sẽ thán phục kiến thức phong thủy của những người đã chọn thế đất này, cũng như cảnh quan karst cụm lũng-đỉnh đặc sắc ở xung quanh.
- Cây thiêng Thài Phìn Tủng
Cây Thiêng Thài Phìn Tủng ở xã Thài Phìn Tủng huyện Đồng Văn là một điểm di sản văn hóa tâm linh của đồng bào dân tộc Mông ở khu vực này. Cây có đường kính khoảng 0,7m. Giữa một vùng chỉ có đá với đá, một cây to như thế quả là một điều lạ, và đúng là phải vì một lý do tâm linh nào đó mà cây vẫn đứng đó thách thức thời gian.
Từ lâu, người Mông ở đây luôn tin rằng có một vị Thần cư ngụ ở gốc Cây Thiêng. Ngài có khả năng hóa giải tất cả những khổ đau, bất hạnh, đem lại may mắn và hạnh phúc cho con người. Người Mông sau khi đi đám ma về qua đây thường buộc một sợi vải đỏ vào cành cây hoặc mỏm đá với mong muốn rũ bỏ hết mọi xui xẻo và gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống. Vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm, người Mông dòng họ Vàng ở đây tổ chức lễ cúng thần tại gốc Cây Thiêng và cứ 12 năm lại tổ chức một đại lễ để cầu may và củng cố tinh thần đoàn kết trong dòng họ và cộng đồng.
Cây Thiêng cổ thụ mọc giữa một cụm rừng đá tạo nên cảnh quan nổi bật giữa thung lũng này là một trong những điểm di sản phi vật thể tiêu biểu của Công viên Địa chất. Khách du lịch đi qua gần đây cũng thường ghé vào làm lễ cầu mong cho chuyến đi vui vẻ và an toàn trong điều kiện địa hình núi non vô cùng hiểm trở.
- Bảo tàng văn hóa các dân tộc Cao nguyên đá
Bảo tàng Không gian văn hóa các dân tộc vùng Cao nguyên đá Đồng Văn được khởi công xây dựng từ tháng 8/2017, trên diện tích khuôn viên quy hoạch 9.000m2. Trong đó diện tích xây dựng công trình trên 1.000m2; dự án được thiết kế theo hình mẫu nhà ở đặc trưng của dân tộc Mông trên vùng Cao nguyên đá với các hạng mục: Nhà trưng bày, đón khách, dịch vụ; Nhà truyền thống dân tộc Mông và các hạng mục phụ trợ khác như khuôn viên sân, vườn,… Bảo tàng đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, trưng bày, lưu giữ những hiện vật cũng như mô phỏng những hình ảnh đồng bào các dân tộc vùng Cao nguyên đá để du khách trong và ngoài nước tham quan, tìm hiểu về mảnh đất, con người nơi cực Bắc Tổ quốc.
Bảo tàng Không gian văn hóa các dân tộc vùng Cao nguyên đá Đồng Văn được tích hợp trong khuôn viên Trạm thông tin du khách huyện Đồng Văn- công trình tiêu biểu có ý nghĩa lịch sử, văn hóa và nhân văn sâu sắc; nơi trưng bày các giá trị di sản tự nhiên, văn hóa của Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn; ghi lại dấu ấn của Cao nguyên đá Đồng Văn qua các thời kỳ.
- Trạm thông tin Đồng Văn
Trạm thông tin du khách huyện Đồng Văn được đặt tại Thôn Quán Dín Ngài, thị trấn Đồng Văn, tỉnh Hà Giang nằm trong khuôn viên Bảo tàng Không gian văn hóa các dân tộc vùng Cao nguyên đá Đồng Văn.
Với vị thế cửa ngõ của huyện Đồng Văn, Trạm thông tin du khách huyện Đồng Văn là nơi cung cấp các thông tin cơ bản, đầy đủ và cập nhật nhất về các điểm di sản địa chất, di sản văn hóa và di sản tự nhiên khu vực huyện Đồng Văn nói riêng và Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn nói chung.
Huyện Đồng Văn là trung tâm của các giá trị di sản trên khu vực CVĐC. Nơi đây tập trung các kiểu địa hình phổ biến: hoang mạc đá với những núi đá tai mèo sắc nhọn và những trũng sâu hun hút (hẻm vực Tu Sản),… Đồng Văn còn được biết đến với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng: Cột cờ Lũng Cú, Phố cổ Đồng Văn,… Không chỉ vậy, tại Đồng Văn các nhà khoa học đã phát hiện ra dấu tích của các hóa thạch có giá trị rất lớn về nghiên cứu, khẳng định sự biến đổi và hình thành nên sự đa dạng về địa chất của khu vực CVĐC.
Ghé thăm Trạm thông tin du khách huyện Đồng Văn, du khách còn được tham quan Bảo tàng Không gian văn hóa các dân tộc vùng Cao nguyên đá Đồng Văn – công trình tiêu biểu có ý nghĩa lịch sử, văn hóa và nhân văn sâu sắc; nơi trưng bày các giá trị di sản tự nhiên, văn hóa của Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn; ghi lại dấu ấn của Cao nguyên đá Đồng Văn qua các thời kỳ.
Các cán bộ, viên chức của Trạm thông tin du khách huyện Đồng Văn cũng là những hướng dẫn viên chuyên nghiệp, nhiệt tình cung cấp các thông tin giới thiệu chi tiết về 2 tuyến tham quan “Giai điệu trên miền đá” và “Hành trình đến tự hào và hạnh phúc” cũng như các điểm tham quan nổi tiếng tại huyện Đồng Văn.
Mọi thông tin chi tiết liên hệ:
– Địa chỉ: Thôn Quán Dín Ngài, thị trấn Đồng Văn, tỉnh Hà Giang
– Phụ trách trạm: Tải Đình Đường
– Điện thoại: 0967.987.676
– Email: dongvan.info@gmail.com
- Phố cổ ĐồngVăn
Phố cổ Đồng Văn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 4195/QĐ-BVHTTDL ngày 16/11/2009.
Năm 1887, sau khi chiếm được Hà Giang, người Pháp đã chọn “Tổng Puôn” (tiếng Tày có nghĩa là “cánh đồng buôn bán”) – một thung lũng bằng phẳng, đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào, giao thương thuận tiện ở vùng biên ải tột cùng phía Bắc Việt Nam để xây dựng lỵ sở, đồn bốt nhằm mục đích cai trị cả vùng đất này. Từ đó, một quần cư khá đông đảo người dân địa phương đã hình thành ở đây và mang tên Phố cổ Đồng Văn (cách gọi chệch của “Tổng Puôn”).
Phố cổ Đồng Văn là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc truyền thống của cư dân bản địa và cư dân vùng Hoa Nam (Trung Quốc), được xây dựng chủ yếu bằng hai nguồn vật liệu tại chỗ là đá vôi và gỗ nghiến mọc ngay trên loại đá vôi này. Phố cổ Đồng Văn bao gồm Khu chợ đá và Khu nhà cổ được xây dựng liên tục từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, còn bảo tồn đến tận ngày nay, tạo nên một tổ hợp các công trình kiến trúc cổ độc đáo.
Dạo quanh Phố cổ Đồng Văn, du khách sẽ còn khám phá được nhiều điều thú vị khác, như các ngôi nhà cổ hàng trăm tuổi, ngôi miếu cổ của người Hoa nằm giữa cánh đồng, miếu thờ thần nước, thần cây hay thậm chí cả di sản địa chất như đá vôi chứa các hóa thạch biển độc đáo…
- Hóa thạch sinh vật biển độc đáo ở Đồng Văn ( Đền thờ Thần Nước)
Hãy quan sát kỹ những tảng đá ngay bên cạnh tấm biển này, quý vị sẽ phát hiện thấy rất nhiều những đốm nhỏ hình oval màu trắng đục.
Đây là hóa thạch của một loài sinh vật đơn bào sống trong môi trường biển cách ngày nay khoảng 345 (vào kỷ Carbon). Chúng phát triển mạnh mẽ trong suốt gần 100 triệu năm và tuyệt diệt sau cuộc khủng hoảng sinh giới lớn nhất hành tinh xảy ra cách ngày nay khoảng 251 triệu năm (vào cuối kỷ Permi).
Những sinh vật kỳ lạ này có tên khoa học là Trùng Thoi, trông giống như những quả bóng bầu dục nhỏ kích thước cỡ hạt đậu tương. Sau khi chết, lớp vỏ vôi cứng của chúng được bảo tồn và trở thành hóa thạch. Các hóa thạch Fusulinids phong phú và được bảo tồn tốt rất có ích cho nghiên cứu, phân loại và xác lập lại điều kiện môi trường thành tạo của các đá chứa chúng.
- Di tích Đồn Cao.
Đồn Cao Đồng Văn là một di tích lịch sử độc đáo có từ thời thuộc Pháp ở miền Bắc Việt Nam. Đồn được quân đội Pháp xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX trên đỉnh núi đá vôi cao nhất Đồng Văn (1.213m so với mực nước biển), kề cận Phố cổ Đồng Văn nhằm mục đích khống chế toàn bộ khu vực này.
Sở dĩ có tên Đồn Cao là để phân biệt với Đồn Thấp, là hai phần của một tổ hợp phòng thủ liên hoàn tương hỗ do người Pháp thiết lập. Hiện nay vẫn còn một đoạn tường Đồn Thấp được bảo tồn ngay trong khuôn viên khu vực UBND huyện Đồng Văn.
Ngoài giá trị lịch sử, Đồn Cao Đồng Văn còn là một di sản địa chất nhân tạo vì nó được xây dựng bởi hai loại đá di sản của Công viên địa chất. Tường thành của đồn được xây bởi đá vôi Trùng thoi, tất cả các lỗ châu mai được lợp bằng đá vôi vân đỏ. Dọc theo tường thành có 97 bậc thang dẫn lên nóc đồn cũng được xây bằng đá vôi Trùng thoi.
Ngày nay, từ nóc Đồn Cao Đồng Văn, bạn sẽ quan sát được một bức tranh toàn cảnh 360o độc đáo bao quát toàn bộ khu vực Đồng Văn, từ núi Tù Sán, nơi nghĩa quân của Sùng Mí Chảng lập căn cứ chống Pháp, đến điểm di sản địa chất có giá trị cấp quốc tế ở đèo Si Phai và nhiều điểm di sản khác có giá trị quan trọng của Công viên Địa chất Toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn.
Tuyến 3: Hành trình tới tự hào và hạnh phúc
- Thủy điện Séo Hồ
Thủy điện Séo Hồ, hay “Trạm bơm PAT Séo Hồ”, ở đối diện Thị trấn Đồng Văn qua đỉnh Ma Ú là một công trình thú vị trên CVĐCTC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn. Đây vốn là một nhà máy với công suất chỉ chừng 300kVA từng cấp điện cho Thị trấn Đồng Văn và thường phải dừng vận hành vào ba tháng mùa khô hàng năm vì không đủ nước. Do nhu cầu điện hiện nay đã được đáp ứng, các đối tác CHLB Đức và Việt Nam đã nghĩ ra một giải pháp độc đáo, biến nó thành một trạm bơm áp dụng công nghệ PAT (máy bơm kết hợp với tuốc-bin) không dùng điện để bơm nước lên đỉnh Ma Ú với độ chênh cao gần 700m, từ đó giải quyết cơ bản vấn đề cấp nước cho Thị trấn Đồng Văn và một số bản lân cận.
Trạm bơm PAT Séo Hồ gồm 02 máy bơm PAT đặt tại nhà máy thủy điện Séo Hồ cũ, một bể chứa dung tích khoảng 200m3 trên đỉnh Ma Ú, một đường ống áp lực dài khoảng 2,5km nối giữa các máy bơm PAT và bể chứa và một hệ thống đường ống phân phối nước từ bể chứa xuống các hộ sử dụng. Người ta còn cải tạo hệ thống đường ống cũ để lấy nước từ Khe Lía cấp cho 02 máy bơm PAT. Nước vào đến các máy bơm này một phần sẽ được trích ra để qua tour-bin chạy máy bơm và phần còn lại, khi máy bơm quay, sẽ được đẩy lên theo đường ống áp lực lên bể chứa Ma Ú. Công nghệ tiên tiến PAT hết sức phù hợp đối với các vùng miền núi Việt Nam. Chính quyền tỉnh Hà Giang đang có ý định nhân rộng mô hình này, qua đó giải quyết căn bản vấn đề nước sạch cho người dân địa phương và khách du lịch đến với Cao nguyên đá.
Có thể tham quan “Trạm bơm PAT Séo Hồ” bằng ít nhất ba tuyến đường, trong đó đường ô tô qua bản Thiên Hương đến điểm quan sát là thuận tiện nhất, từ đó có thể quan sát toàn cảnh hẻm vực Khe Lía và trạm bơm, đồng thời muốn xuống tận trạm bơm hay lên đỉnh Ma Ú cũng tiện. Chưa kể, theo đường này, du khách sẽ còn có những giây phút sởn gai ốc vì vẻ đẹp của cảnh quan karst dạng cụm lũng-đỉnh, khi ở độ cao gần đỉnh trông xuống một thung lũng karst khổng lồ, sâu hun hút mà dưới đáy vẫn thấy làng bản đông đúc, ruộng bậc thang, vườn tược trù phú.
- Đá xâm nhập Séo Hồ
Cùng là sản phẩm kết tinh của magma nóng chảy từ dưới lòng đất đi lên, các nhà khoa học phân biệt đá phun trào (magma phun ra ngoài trên bề mặt Trái Đất) và đá xâm nhập (magma nằm lại trong lòng đất ở độ sâu khá lớn, tới 1,5km hoặc hơn). Đá phun trào do nguội lạnh nhanh nên chỉ tạo thành những tinh thể nhỏ. Đá xâm nhập thường tạo thành những tinh thể lớn hơn, kích thước có khi tới hàng cm. Đá xâm nhập cũng còn được gọi là đá Pluton – bắt nguồn từ Pluto – tên vị thần cai quản Âm Phủ trong thần thoại La Mã. Cũng có loại đá xâm nhập ở gần mặt đất hơn – người ta gọi là đá xâm nhập nông. Đá xâm nhập thành phần bazơ gọi là gabbro, đá xâm nhập nông cũng thành phần đó gọi là diabase.
Trái Đất cấu tạo gồm nhiều lớp, trong đó lớp ngoài cùng gọi là Vỏ Trái Đất. Lớp vỏ này lại gồm có vỏ đại dương, nằm dưới đáy các đại dương, và vỏ lục địa. Đá gabbro là thành phần chính của vỏ đại dương, thường liên quan đến các loại khoáng sản như sắt, đồng, niken…, bản thân nó cũng còn được gọi là “hoa cương đen“ và được sử dụng làm vật liệu xây dựng.
Lộ ra ở Séo Hồ, gần Thị trấn huyện lỵ Đồng Văn, là một số thể nhỏ đá xâm nhập nông – gabbro-diabase – rộng khoảng một vài chục m2, còn khá tươi, cứng chắc, mầu xanh sẫm, nhìn rõ các hạt khoáng vật đặc trưng kích thước 1-5mm. Trên CVĐCTC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn tưởng chừng chỉ có đá vôi và một ít cát, bột, sét kết…, sự có mặt của các thể đá kể trên cũng là một điều thú vị. Cùng với các đá cát, bột, sét kết… chúng minh chứng cho quá trình tách giãn lục địa cổ, xuất hiện đại dương mới ở khu vực Cao nguyên đá Đồng Văn vào khoảng 250 triệu năm trước.
- Điểm quan sát Hẻm vực Khe Lía
Điểm quan sát toàn cảnh Khe Lía nằm ở ngã ba đường đi Thị trấn Đồng Văn, Nhà Vương và Cột cờ Lũng Cú. Ở giữa trời đất, trông lên vẫn còn thấy những đỉnh núi cao với những con đường ẩn hiện, trông xuống là những thung lũng rộng và sâu với làng bản, vườn tược… Gần thì là sườn các nón đá vôi lộ ra chỉ rặt những mỏm đá tai mèo – một kiểu rừng đá hay hoang mạc đá. Xa và cao hơn là các vách đá vôi dựng đứng, trên đỉnh thật kỳ lạ vẫn thấy một số nón đá vôi nhỏ hơn. Quả là một cảnh tượng hết sức hoành tráng, chưa kể các hẻm vực Mia Lé và Khe Lía, ngăn cách với nhau chỉ bởi cái yên ngựa nơi ta đang đứng. Con suối Mia Lé theo đứt gãy phương tây bắc-đông nam về đến đây thì chảy ngầm trong hệ thống ba cái hang liên tiếp trước khi xuất lộ lại, chảy dọc Khe Lía cũng theo một đứt gãy nhưng phương đông bắc-tây nam, để rồi sau đó đổ ra sông Nho Quế ở cách đó khoảng hơn 2km về phía hạ lưu.
Chỗ sâu nhất cũng đến 500-600m, hẻm vực Khe Lía về độ hùng vĩ có lẽ chỉ sau hẻm vực Tu Sản dọc sông Nho Quế ở khu vực đèo Mã Pì Lèng. Tuy thế nó lại có những nét đặc sắc riêng.
Có thể khám phá toàn cảnh Khe Lía và thủy điện Séo Hồ bằng ít nhất ba tuyến đường, nhưng từ điểm quan sát này, và nếu quan tâm đến sự đa dạng của các di sản địa chất ở đây, thì thuận tiện nhất là đi dọc theo chính Khe Lía.
Ngay từ ngã ba đường rẽ vào đã có thể thấy một chuỗi ba hang khá lớn với dòng chảy ngầm. Tiếp đó sẽ là một điểm lộ đá gabbro-diabase (điểm 32) còn khá tươi, đại diện cho một loạt diện lộ tương tự ở lân cận. Đường xuống thủy điện Séo Hồ (điểm 31) đi vuông góc với phương cấu trúc địa chất, vì thế du khách sẽ có cơ hội khám phá mặt cắt chuẩn của một loạt phân vị địa chất hình thành khoảng 400-270 triệu năm trước, đã từng được các nhà địa chất Pháp nghiên cứu từ những năm đầu thế kỷ 20.
- Nhà cổ dân tộc Giáy Ma Lé
Những thứ bạn đang thấy trên bức tường này chính là hóa thạch Tay cuộn – một loại sinh vật biển (Brachiopod) có vỏ cứng đã từng sống ở khu vực này khoảng 400 triệu năm trước. Địa điểm phát hiện ra chúng thực ra nằm cách đây khoảng 100m nhưng nó khá dễ bị xâm hại và không thể giới thiệu cho du khách. Để bảo vệ, đồng thời vẫn có thể giới thiệu cho du khách về điểm hóa thạch này, Ban quản lý Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO đã thu thập những mẫu đá chứa hóa thạch và trưng bày chúng ở đây.
Ban quản lý cũng hợp tác với chủ nhà – một đối tác của CVĐC – trưng bày trong ngôi nhà cổ hơn 200 tuổi ở phía tay trái bạn một “Bảo tàng Tay cuộn Mini”. Bạn sẽ nắm được những thông tin cơ bản về loài sinh vật cổ mà một số ít đại diện của chúng hiện vẫn sống ở một số vùng biển trên Trái Đất.
Bạn đang ở bản Ma Lé, xã Ma Lé, huyện Đồng Văn – nơi sinh sống chủ yếu của cộng đồng người Giáy, với khoảng 90% trong tổng số khoảng 20 nóc nhà. Người Giáy ở Ma Lé vẫn giữ được những nét đặc trưng văn hóa của mình trong sinh hoạt thường nhật, nghề truyền thống và các nghi lễ.
Nhìn tổng thể, bản Ma Lé mang đậm nét kiến trúc của người Giáy với những ngôi nhà sàn hai tầng với móng, trụ bằng đá; khung gỗ; tầng 1 tường bằng gạch đất không nung, tầng 2 tường và các vách ngăn bằng gỗ; toàn bộ cửa bằng gỗ. Các phần gỗ và đá đều được chạm khắc khá tinh xảo với các hoa văn như hoa cúc, hoa sen, đèn lồng…, một điều ít thấy ở các dân tộc khác sống trên Cao nguyên đá.
Địa điểm hóa thạch “nhân tạo” cũng như “Bảo tàng Tay cuộn Mini” là một sáng kiến của CVĐCTC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn, nơi văn hóa bản địa kết hợp chặt chẽ với khoa học để hỗ trợ các hoạt động phát triển bền vững ở địa phương.
Hãy tận hưởng “Bảo tàng Tay cuộn Mini” khi khám phá nền văn hóa cũng như những tri thức bản địa độc đáo của người Giáy.
- Cột cờ Lũng Cú
Những ai đã từng đến với CVĐCTC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn thì đều không ít hơn một lần đến thăm Cột cờ Lũng Cú trên đỉnh núi Rồng – biểu tượng thiêng liêng, tự hào về chủ quyền đất nước ở điểm cực Bắc địa đầu Tổ quốc, nơi có lá cờ đỏ sao vàng rộng 54m2, tượng trưng cho 54 dân tộc anh em chung sống trên đất Việt Nam. Lũng Cú (Hà Giang) = nơi rồng ở; Hạ Long (Quảng Ninh) = nơi rồng xuống; Thăng Long (Hà Nội) = nơi rồng bay lên – dường như có một sợi dây văn hóa bền chắc gắn kết các mảnh đất Việt, những tâm hồn Việt! Lũng Cú, quả thật, là nơi có các giá trị di sản văn hóa đậm đặc, hòa quyện với các giá trị di sản địa chất cũng không kém phần đặc sắc.
Trên đường lên Cột cờ, trong đá vôi cấu tạo nên Núi Rồng, du khách có thể bắt gặp rất nhiều hóa thạch Bọ ba thùy, đặc biệt có một cái đuôi con bọ này lộ ngay trên bề mặt đá vôi, trông giống hệt một chiếc Vương miện. Bọ ba thùy là một loài cổ sinh nay đã tuyệt diệt, sự có mặt của chúng chứng tỏ rằng cách ngày nay khoảng 520 triệu năm, tức là cổ nhất cho đến nay trên Cao nguyên đá, nơi đây đã từng là đại dương và chỉ sau này mới được nâng lên thành núi.
Đứng trên đỉnh Núi Rồng, du khách có thể quan sát thấy địa hình các chóp nón lô xô cấu tạo từ các lớp đá vôi đơn nghiêng kể trên trông tựa như các mái nhà lệch. Nhìn về phía đông bắc và tây nam, du khách có thể nhìn thấy hai hồ nước ngay dưới chân núi. Mặc dù ở độ cao gần 1500m song nước trong hồ chưa bao giờ cạn, được người dân gọi là “Mắt Rồng”. Tương truyền khi xưa, dân làng luôn bị thiếu nước, cuộc sống rất chật vật. Rồng thiêng động lòng trắc ẩn nên trước khi bay về trời đã để lại cho họ đôi mắt, biến thành hai hồ nước ngày nay. Theo các nhà khoa học, “Mắt rồng” thực chất là 2 phễu karst cổ hiện đã ngừng hoạt động và được bịt kín bởi sét là sản phẩm phong hóa của đá vôi ở khu vực này.
- Làng Lô Lô Chải
Nằm ngay dưới chân núi Rồng – đỉnh cực Bắc Tổ quốc – làng văn hóa Lô Lô Chải thuộc xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, là nơi sinh sống của người Lô Lô và người Mông. Với 96 hộ dân, 453 nhân khẩu, trong đó người Lô Lô chiếm khoảng 90%, Lô Lô Chải không chỉ nổi tiếng với phong cảnh hữu tình, mộc mạc, nguyên sơ, đây còn là nơi lưu giữ vẹn nguyên những nét văn hóa độc đáo của người Lô Lô trên Cao nguyên đá Đồng Văn.
Đến Lô Lô Chải, du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng một bản làng tuyệt đẹp với những ngôi nhà trình tường, mái lợp ngói máng…; được tham quan các nghề truyền thống như nghề thêu, nghề làm ngói máng, nghề mộc…
Gặp đúng dịp, du khách có thể được hòa mình vào các lễ hội, như lễ cúng thần rừng, lễ mừng lúa mới, lễ mừng nhà mới, các điệu múa dân gian…, và cùng với chúng chứng kiến việc người Lô Lô sử dụng bộ đôi trống đồng – một đực, một cái – được coi là nơi duy nhất và nền văn hóa duy nhất trên thế giới hiện còn sử dụng trống đồng trong thực tế cuộc sống. Du khách cũng có thể cùng người dân bản địa tham gia các sinh hoạt thường nhật, như đi làm nương, hái rau, chăn bò, nấu và thưởng thức các món ẩm thực…
Đặc biệt, du khách sẽ có dịp mặc thử những bộ váy truyền thống rực rỡ của người Lô Lô, một trong những trang phục truyền thống đẹp và độc đáo bậc nhất trên CVĐCTC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn. Mỗi bộ trang phục đều được chính người phụ nữ ở đây làm từ vải bông và thêu tay rất công phu các họa tiết như mắt chim, chân chim, cánh chim, hình ruộng bậc thang, hoa Tam giác mạch…
- Tượng đài thanh niên xung phong
Con đường Hạnh Phúc dài 185 km bắt đầu từ Thành phố Hà Giang xuyên qua CVĐCTC UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn tới thị trấn Mèo Vạc. Con đường hình thành từ công sức và cả máu xương của 1.200 dân công địa phương và hơn 1.000 thanh niên xung phong thuộc 16 dân tộc của 8 tỉnh miền Bắc, gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Nam Định và Hải Dương. Họ đã phải thi công trong suốt thời gian hơn 5 năm (10/9/1959 -15/6/1065), với trên 2 triệu ngày công, đào đắp, di chuyển trên 3 triệu m3 đất đá. Đoạn đường dài 24km vượt qua đèo Mã Pí Lèng là mất nhiều công sức, xương máu hơn cả. Khi tuyến đường được khai thông đã có 14 thanh niên xung phong hy sinh, mãi mãi nằm lại trên Cao nguyên đá Đồng Văn.
Giống như tên gọi của nó -“Hạnh Phúc”- con đường hoàn thành chứa đựng niềm hạnh phúc vô bờ của hàng vạn đồng bào dân tộc vốn bị biệt lập từ bao đời nay trên Cao nguyên đá Đồng Văn. Từ con đường này, hệ thống đường nhánh về xã, bản dần dần mang theo “điện – đường – trường – trạm” về với từng bản làng, làm tươi sáng tương lai của bao đứa trẻ, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no.
Để tưởng nhớ và tri ân thế hệ thanh niên xung phong tham gia mở đường Hạnh Phúc, năm 2017 tỉnh Hà Giang đã hoàn thành xây dựng Cụm tượng đài Thanh niên xung phong. Công trình làm bằng đá tự nhiên đẽo tạc, có chiều cao 12m, cả bệ là 16m, gồm: cụm tượng chính gồm 05 nhân vật thể hiện cho lực lượng Thanh niên xung phong các dân tộc của 8 tỉnh tự hào, hiên ngang chinh phục thiên nhiên, mở ra con đường hạnh phúc, và 03 bức phù điêu chạm khắc nổi thể hiện 3 nội dung: chia tay người thân lên biên cương cực Bắc xẻ đá núi vượt cổng trời; hình ảnh thể hiện sự gian khó khi mở đường và hình ảnh mở đường thắng lợi.
Tượng đài thanh niên xung phong bên cạnh con đường Hạnh Phúc hài hòa với khung cảnh kỳ vĩ nơi đây chắc chắn sẽ khơi dậy trong lòng du khách niềm tự hào và biết ơn các thế hệ cha anh.
- Tuyến đi bộ vách đá trắng
Cụm di sản Đèo Mã Pì Lèng vốn được coi là hoành tráng nhất ở khu vực CVĐC Toàn Cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn, với các điểm tham quan như Tượng đài Thanh niên Xung phong, “con đường Hạnh phúc”, hẻm vực sâu nhất Việt Nam, các bề mặt sườn xâm thực kỹ vĩ dọc sông Nho Quế hay di tích đáy thung lũng Mèo Vạc cổ nằm trên sườn ở độ cao 900m… Nhưng dường như thế vẫn chưa đủ, muốn cảm nhận hết sự hùng vĩ mà thiên nhiên ban tặng riêng cho “miền đá” này du khách sẽ rất muốn trải nghiệm thêm tuyến đi bộ mạo hiểm dài hơn 4km nối từ thôn Xéo Sả Lủng, xã Pải Lủng, ngay dưới chân Tượng đài Thanh niên Xung phong, qua “vách đá trắng” trên đỉnh núi Cô Tiên đến thôn Mã Pì Lèng.
Ngay từ điểm khởi đầu và gần như suốt dọc hành trình du khách sẽ được “mục sở thị” loại đá vôi sọc dải, vân đỏ hoặc xanh, phân lớp thành từng tệp mỏng đều tăm tắp, bị vò nhàu thành những nếp uốn nhỏ muôn hình vạn trạng. Dấu ấn của hoạt động kiến tạo trong quá khứ cùng các quá trình rửa trôi, xói mòn còn được thể hiện ở các phân bậc địa hình cùng trùng trùng điệp điệp các chóp nón đá vôi trông tựa như các “kim tự tháp cổ đại” ẩn hiện trong mây. Choáng ngợp, sởn gai ốc, như ở chốn bồng lai tiên cảnh…, chắc chắn đó lẽ là cảm xúc của bất kỳ ai trước sức mạnh cùng sự sáng tạo của Mẹ Thiên nhiên.
Sửng sốt hơn nữa, đây mới chính là con đường, trong quá khứ không xa, từng được người dân địa phương sử dụng để giao thương giữa Đồng Văn và Mèo Vạc, và hiện tại họ vẫn đang tiếp tục đi lại trên nó trong cuộc sống thường nhật của mình: đi chợ, làm nương – với tri thức thổ canh hốc đá độc đáo, kiếm củi, tìm kiếm nước, các dịp lễ lạt, bắt vợ…
Phóng tầm mắt ra xa, và xuống dưới chân mình, “con đường Hạnh phúc” ẩn hiện, ngoằn nghoèo cùng dòng Nho Quế còn ở dưới sâu hơn nữa. Đối lại, và hài hòa với Mẹ Thiên nhiên vĩ đại và khắc nghiệt, con đường đó, cũng như tuyến đường đi bộ này, quả là một bản tuyên ngôn về sức mạnh và ý chí của con người. Thật đáng trân trọng và tự hào!
- Điểm dừng chân Mã Pì Lèng
Đèo Mã Pì Lèng là đoạn đường đèo hiểm trở bậc nhất trên Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn vốn đã có địa hình vô cùng hiểm trở, nhưng bên cạnh cảnh quan hùng vĩ nơi đây lại chứa đựng nhiều di sản địa chất có giá trị nổi bật.
Khu vực được cấu tạo bởi các loại đá vôi hình thành trong môi trường biển cách ngày nay trên 415-260 triệu năm. Du khách đến đây có thể bắt gặp nhiều giống, loài cổ sinh như Trùng thoi, San hô, Huệ biển… Đáng chú ý có sự kiện khủng hoảng sinh giới toàn cầu vào cuối kỷ Devon, cách ngày nay khoảng 375-360 triệu năm (gọi là ranh giới Frasni-Famen, với khoảng 19% số họ và 50% số giống cổ sinh bị tuyệt diệt).
Các vận động kiến tạo về sau đã biến khu vực này thành lục địa, gây ra vô số những uốn nếp, dập vỡ trong các loại đá vôi. Cảnh quan hùng vĩ như ta thấy ngày nay là chủ yếu là kết quả của hoạt động đứt gãy sông Nho Quế khoảng từ 32 triệu năm trước đến nay, đặc biệt là khoảng từ 5 triệu năm trước đến nay, cũng như nhiều quá trình địa chất khác như rửa trôi, bóc mòn, san bằng, karst hóa… Hẻm vực sông Nho Quế đoạn qua đèo Mã Pì Lèng dài 1,7km, sâu tới 700-800m, vách dốc 70-80o, được coi là hẻm vực sâu nhất Việt Nam và Đông Nam Á nên từ lâu đã được mệnh danh là ”Đệ nhất Hùng Quan”.
Cùng với các giá trị di sản văn hóa khác, như di tích lịch sử-danh thắng quốc gia Con đường Hạnh Phúc, Tượng đài Thanh niên Xung phong… các di sản địa chất đã góp phần đem lại cho du khách một trong những cảm xúc khó quên nhất về Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn.
- Điểm quan sát toàn cảnh Mã Pì Lèng
Đèo Mã Pì Lèng là một đoạn quốc lộ 4C nối liền 2 huyện Đồng Văn-Mèo Vạc. Dài khoảng 20km qua 3 xã: Pải Lủng, Pả Vi và Xín Cái, huyện Mèo Vạc, đèo được công nhận là Danh lam thắng cảnh cấp quốc gia theo Quyết định số 4194/QĐ-BVHTTDL ngày 16/11/2009. Tên gọi “Mã Pì Lèng” có nhiều cách giải thích: “mũi ngựa mát” hoặc “tuyết bám mũi ngựa” hoặc “dốc ngựa chết”,v.v… tất cả mọi cách giải thích đều ám chỉ mức độ chênh vênh hiểm trở của đèo Mã Pì Lèng.
Đây cũng là khu vực hội tụ đa dạng các di sản địa chất bao gồm: hẻm vực Mã Pì Lèng, vách trượt đứt gãy Mã Pì Lèng, các sườn xâm thực – bóc mòn, nếp uốn Mã Pì Lèng, di tích đáy thung lũng cổ Mèo Vạc, tháp kim Pả Vi, ranh giới giữa các loại đá vôi có tuổi, đặc tính phân lớp, thành phần và màu sắc khác nhau… (xem ảnh)
Đèo Mã Pì Lèng cũng gắn liền với lịch sử hào hùng của Con đường Hạnh Phúc – một di tích lịch sử-danh thắng cấp quốc gia mà hàng vạn đồng bào 16 dân tộc các tỉnh Cao Bắc Lạng, Thái Tuyên Hà, Hải Hưng và Nam Định đã đổ biết bao mồ hôi và xương máu trong suốt 5 năm liền (từ 10/9/1959 đến 15/6/1065) để làm nên. Chỉ riêng đoạn qua đèo Mã Pì Lèng hơn 1.000 thanh niên xung phong đã phải treo mình trên vách đá trong suốt 11 tháng ròng để phá đá mở đường. Đây cũng là một kỳ tích về sức mạnh đoàn kết của đồng bào các dân tộc anh em trên Cao nguyên đá Đồng Văn, một kỳ tích đã được khắc vào bia đá để du khách đến tham quan đèo Mã Pì Lèng giờ đây có thể hồi tưởng một cách trân trọng.
- Trạm thông tin Mèo Vạc
Nằm ở điểm cuối của con đường Hạnh Phúc, huyện Mèo Vạc có diện tích 14,41km2, dân số trên 5 nghìn người, là trung tâm giao lưu kinh tế, văn hóa của huyện Mèo Vạc.
Hệ thống cơ sở lưu trú, dịch vụ ăn uống, vui chơi giải trí ngày càng hoàn thiện, cơ bản đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Du khách đến với Thị Trấn Mèo Vạc sẽ được tham gia trải nghiệm nhiều không gian sinh hoạt văn hóa đặc sắc của vùng Cao nguyên đá.
Trạm thông tin du khách huyện Mèo Vạc nằm tại trung tâm thị trấn Mèo Vạc. Đây là nơi du khách đến để tham quan, tìm hiểu thông tin về các điểm du lịch, các dịch vụ lưu trú, những món ẩm thực mang đậm hương vị Cao nguyên đá Đồng Văn. Trạm thông tin du khách huyện Mèo Vạc là nơi cung cấp những thông tin chính thống và cập nhật tới du khách.
Với đội ngũ viên chức trạm có kiến thức chuyên môn, nắm vững địa bàn khu vực, có mối quan hệ gắn bó, gần gũi với cộng đồng cư dân địa phương sẽ cung cấp nhưng nguồn thông tin chính xác cũng như mang lại những trải nghiệm thú vị cho du khách đến với huyện Mèo Vạc nói riêng và Công viên địa chất toàn cầu nói chung.
Mọi thông tin chi tiết liên hệ:
– Địa chỉ: Tổ 1, Thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang
– Phụ trách trạm: Hoàng Đức Quản
– Điện thoại: 0912.514.932
– Email: meovac.info@gmail.com
- Khuôn viên tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thị trấn Mèo Vạc nằm trong thung lũng kiến tạo-karst phương á kinh tuyến, được bao bọc bởi cảnh quan karst dạng dãy, đặc trưng cho giai đoạn trẻ của chu trình tiến hóa karst.
Tọa lạc giữa trung tâm Thị trấn Mèo Vạc là tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là công trình nghệ thuật thể hiện tấm lòng biết ơn của nhân dân huyện Mèo Vạc đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người đã mang lại độc lập, tự do, cuộc sống no ấm cho dân tộc Việt Nam nói chung và các dân tộc ít người vùng cao nói riêng.
Được xây nhân kỷ niệm 83 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/1973), tượng đài do nhà điêu khắc Song Văn, cán bộ Cục Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), thiết kế, được làm bằng bê tông cốt thép, cao 3,3m, phun nhũ đồng. Dưới chân tượng đài là một khối karst sót với các cột đá vững chắc trường tồn cùng năm tháng như một biểu tượng cho sự tôn kính và trân quý của người dân vùng cao đối với Người.
Nằm ở vị trí thuận lợi, hướng ra sân vận động Thị trấn, ngay bên cạnh Trung tâm Thông tin về CVĐC Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn ở huyện Mèo Vạc, tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh là điểm cuối của con đường “Hạnh Phúc” chạy từ Thành phố Hà Giang nối liền các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn đến Mèo Vạc. Đây cũng là nơi diễn ra các sự kiện văn hóa-chính trị, là nơi tập trung của người dân Thị trấn cũng như từ các làng bản xung quanh mỗi dịp lễ hội, chợ phiên, nơi người dân tản bộ, thư giãn hàng ngày, đồng thời cũng là một điểm tham quan của du khách.
- Hợp tác xã thổ cẩm Lô Lô
Người Lô Lô ở thôn Sảng Pả A, Thị trấn Mèo Vạc vẫn còn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình, thể hiện rất rõ trong sinh hoạt hàng ngày, trong lễ hội và trang phục, nhất là trang phục của người phụ nữ.
Trang phục phụ nữ Lô Lô khá rực rỡ với mầu đỏ là chủ đạo. Hình thức trang trí rất độc đáo với vô số chi tiết thêu ghép vải cùng các phụ kiện đính kèm. Áo cánh thêu nhiều ở hai ống tay, trước ngực và sau lưng. Quần ống rộng với hoa văn dọc hai bên ống. Một tấm vải dày đặc hoa văn phủ quanh hông cùng hai hoặc ba chiếc thắt lưng thêu. Đầu quấn khăn với vô số quả bông nhỏ.
Phụ nữ Lô Lô từ khi còn nhỏ đã được bà, mẹ dạy khâu vá, thêu thùa để khi về nhà chồng phải mang theo ít nhất một bộ váy áo. Việc đó giúp họ giữ được không chỉ nghề khâu vá, thêu thùa mà còn cả những nét văn hóa truyền thống trên trang phục của mình. Phải mất 2-3 năm mới làm có thể làm xong bộ váy áo công phu này.
Tất cả các khâu từ cắt may, ghép vải thành hoa văn, thêu trang trí, gắn tua sợi hay len màu, đính hạt cườm… đều làm thủ công. Hoa văn trang trí được xếp đặt rất sáng tạo, chỉ bằng vài mảnh vải nhỏ hình tam giác, hình mặt trời, hình hoa đào hoặc hoa thảo quả được ghép với nhau là có thể tạo ra những hình thể mới đa dạng, độc đáo hơn…
Năm 2011, Craft Link đã phối hợp với Hội phụ nữ tỉnh Hà Giang triển khai dự án “Bảo tồn, gìn giữ nền văn hóa truyền thống và nâng cao thu nhập cho người Lô Lô” tại Mèo Vạc nhằm nâng cao nhận thức giá trị văn hóa của người Lô Lô, cải thiện kỹ năng thêu, may, đồng thời hướng dẫn cách quản lý tài chính và tiêu thụ sản phẩm… Trên cơ sở đó, hợp tác xã dệt may Lô Lô đã được thành lập vào năm 2016. Hiện tại, hợp tác xã cung cấp khoảng 40 sản phẩm cho Craft Link như quần áo, túi xách, gối, khăn trải bàn, khăn quấn đầu, mũ, bờm tóc, lơ tóc…, doanh thu hàng năm khoảng 100 triệu đồng, thu nhập bình quân hơn 2 triệu đồng/người/tháng.
- Nhà truyền thồng người Mông Mèo Vạc
Nhà cổ Mèo Vạc có tên thường gọi là “Nhà cổ Chúng Pủa” (Auberge de Meo Vac) nằm trong thung lũng Mèo Vạc. Chúng Pủa là tên cũ của làng người Mông trắng đã định cư ở thị trấn Mèo Vạc từ khoảng 300 năm trở lại đây.
Theo người già kể lại, trước đây người dân làng Chúng Pủa đều ở trong những ngôi nhà cổ mang kiến trúc truyền thống của dân tộc Mông. Theo dòng thời gian những ngôi nhà truyền thống được thay thế dần bằng các ngôi nhà hiện đại. Hiện tại chỉ còn lại 2 ngôi nhà cổ có tuổi trên trăm năm. Cũng giống như những ngôi nhà truyền thống khác của người Mông, “nhà cổ Chúng Pủa” là một tổ hợp kiến trúc hoàn chỉnh. Bao quanh khuôn viên nhà là hàng rào đá, chính giữa là sân trời lát đá tảng. Nhà ba gian có gác, tường trình bằng đất, mái lợp ngói máng âm dương, cửa gỗ thấp. Sàn gác và cầu thang làm bằng gỗ sa mộc và pơmu. Hai bệ đá ngoài trụ cổng tạc chim phượng hoàng vờn hoa mẫu đơn, lợn nái bên bụi khoai môn, rồng ngậm ngọc, lân múa… Những tảng đá kê chân cột được khắc chạm hình cánh sen, dây cúc, chữ thọ… rất tỷ mỉ và đẹp. Kiểu kiến trúc này rất thích nghi với điều kiện khí hậu và thời tiết vô cùng khắc nghiệt ở Cao nguyên đá Đồng Văn, đồng thời phù hợp với phong tục tập quán truyền thống của đồng bào dân tộc Mông.
Nhà cổ Mèo Vạc trước đây thuộc về gia tộc ông Vàng Mí Sì, hiện đã chuyển quyền sở hữu. Ngôi nhà đã được phục dựng, tôn tạo, lưu giữ kiến trúc và văn hóa truyền thống của dân tộc Mông và khai thác du lịch cộng đồng (homestay) từ năm 2013. Du khách đến đây không chỉ nghỉ ngơi sau những chuyến du lịch dài ngày, thưởng ngoạn cảnh vật độc đáo mà còn được tìm hiểu về kiến trúc và văn hóa bản địa riêng có ở Mèo Vạc. Cách đó chỉ khoảng hơn một trăm mét, du khách đồng thời cũng có thể tham quan cả ngôi nhà cổ thứ hai, cũng đã được phục dựng, tôn tạo, nhưng đồng thời còn được trang bị thêm một số phòng ốc hiện đại ở trong cùng khuôn viên.
- Hợp tác xã mật ong bạc hà Tuấn Dũng.
Công viên địa chất Toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn không chỉ nổi tiếng với những vùng núi đá vôi hùng vĩ, những con đường quanh co, uốn lượn hay cả những cánh đồng bạt ngàn hoa tam giác mạch… Nơi đây còn nổi tiếng với các đặc sản độc đáo, riêng có như rượu ngô, chè shan tuyết, mật ong…, đặc biệt là mật ong bạc hà.
Bạc hà là một loại cây dại, chỉ có ở vùng Cao nguyên đá Đồng Văn. Khi tiết trời se lạnh, những bông hoa màu tím dịu dàng, mùi thơm pha lẫn chút cay cay, hăng hăng của bạc hà, lẫn vào những thảm cỏ, dệt thành bức tranh đa sắc màu trên các sườn núi đá vôi. Từ xa xưa người dân nơi đây đã biết công dụng của loài hoa mọc trên đá này để nuôi ong và cất ra loại mật ong bạc hà với những dược tính đặc biệt.
Việc Cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận là Công viên Địa chất Toàn cầu UNESCO đã tạo ra nhiều cơ hội sinh kế mới cho người dân, trong đó nghề nuôi ong đã góp phần mang lại thu nhập ổn định và đã có một số người làm giàu từ nghề nuôi ong hoa bạc hà.
Hợp tác xã mật ong bạc hà Tuấn Dũng, thị trấn Mèo Vạc, được thành lập từ năm 2013. Với lợi thế là địa phương có diện tích cây bạc hà khá lớn và từ 70 đàn ong bản địa ban đầu, đến nay hợp tác xã đã có 3.000 đàn ong, sản lượng mật chế biến và tiêu thụ bình quân đạt 15.000 lít mật/năm.
Để bảo đảm sản xuất, HTX đã xây dựng 1 cơ sở chế biến mật ong hoa bạc hà, 1 cơ sở giới thiệu, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, tạo việc làm ổn định cho 24 lao động thường xuyên và 60 hộ thành viên làm vệ tinh.
Sản phẩm mật ong bạc hà Mèo Vạc của HTX Tuấn Dũng đã được Cục Sở hữu Trí tuệ, Bộ KHCN cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý, là minh chứng cụ thể cho hoạt động hiệu quả của HTX trong việc bảo tồn và phát triển bền vững đàn ong vùng Cao nguyên đá.
Tuyến 4: Hành trình đến với tương lai xanh
- Thiết giao long phá thạch
Tưởng chừng mọi thứ, như cảnh quan, hẻm vực, tháp, nón… trên Cao nguyên đá đều liên quan đến đá vôi, thì “rồng Sủng Máng” ở Sủng Trà, thị trấn Mèo Vạc, lại đem đến trải nghiệm mới về một loại đá khác, cả về thành phần lẫn hình thái.
Trên một sườn núi rộng, thoải, đã được cải tạo thành một nương đá mầu mỡ, đột nhiên, uốn lượn như một con rồng, nổi cao hơn xung quanh 5-7m, rộng 3-5m, một dải dài cả trăm mét. Và điều thú vị lại ở chỗ đó không phải là đá vôi!
Hiện có hai ý kiến về thành phần, nguồn gốc, cơ chế thành tạo “rồng Sủng Máng”. Một cho rằng đó là một thể đá mạch thành phần bazơ – gọi là diabase – một loại đá núi lửa giàu các khoáng vật silicat nhôm và sắt, xuyên cắt lên trong đá vôi.
Ý kiến thứ hai, có vẻ có cơ sở hơn, vì có kèm theo phân tích mẫu. Theo đó đá chủ yếu gồm các kết hạch khoáng vật hydroxit nhôm và các khoáng vật hydroxit sắt, oxyt sắt ở dạng keo, vì thế gọi là quặng bauxite sắt nguồn gốc trầm tích, thường gặp ở các vùng đá vôi Đông Bắc Việt Nam.
Có thể bạn đã biết, rằng bauxite là quặng để sản xuất nhôm, và Việt Nam có trữ lượng bauxite lớn hàng đầu thế giới, nhưng đó là bauxite hình thành do phong hóa đá núi lửa basalt vốn rất nhiều ở Tây Nguyên. Còn quặng bauxite sắt kể trên, trữ lượng ít hơn nhiều, lại có nguồn gốc hình thành khác. Theo đó các tập đá vôi rất dầy, xen lẫn những tập sét, bị hòa tan, rửa lũa, hoặc cũng có thể những lớp đá núi lửa bị phong hóa, rửa trôi hết, để lại những tích tụ tàn dư giàu nhôm và sắt. Những tích tụ này sau đó còn được hòa tan, vận chuyển và tập trung trong những khe rãnh, hang hốc karst, tái kết tủa, hình thành bauxite sắt nguồn gốc trầm tích.
Có một điểm chung trong cả hai ý kiến trên, đó là các khoáng vật giàu nhôm và sắt kể trên đều rất bền vững. Vì thế mới sót lại những thể đá kỳ dị nổi cao trên địa hình, khi đá vôi chứa chúng bị rửa trôi, hòa tan hết.
- Làng nghề truyền thống người Dao
Người Dao Tả Pan ở Sủng Máng (Mèo Vạc) chiếm 95% dân số cả xã. Cũng như đa số đồng bào Dao ở Hà Giang, người Dao ở Tả Pan từ xưa đã biết cách thích ứng với môi trường tự nhiên khắc nghiệt, khai thác sảnvật của núi rừng, canh tác nương rẫy, chăn nuôi gia súc, gia cầm và làm các nghề phụ như thêu dệt, đan lát, chạm bạc, rèn, đúc… để đảm bảo cuộc sống tự cung tự cấp. Phụ nữ Dao Tả Pan có nghề trồng bông, dệt vải, nhuộm, thêu hoa văn và khâu những bộ trang phục truyền thống cầu kỳ trong khi đàn ông có nghề chạm bạc, rèn đúc làm ra các món trang sức như vòng cổ, vòng tay, hoa tai, nhẫn, dây xà tích… cũng như các nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Theo thời gian, các nghề truyền thống phần nào bị mai một và thay đổi đáp ứng nhu cầu cuộc sống hiện tại. Phụ nữ Dao Tả Pan vẫn duy trì nghề làm trang phục truyền thống, tuy nhiên các công đoạn đã được giảm bớt. Họ không trồng bông dệt vải nữa mà mua vải thô về nhuộm, thêu hoa văn và may trang phục. Họ chú trọng và ngày càng sáng tạo hơn ở khâu thêu trang trí hoa văn bằng cách kết hợp thêu với những món đồ trang sức tạo ra các mô típ hoa độc đáo mà vẫn giữ được nét truyền thống. Đàn ông Dao Tả Pan cũng vẫn duy trì và phát triển tốt nghề rèn. Các sản phẩm tạo ra từ các nghề truyền thống ngày càng tinh tế, thẩm mĩ, không chỉ cung cấp cho người dân địa phương mà còn mở rộng bán tại các chợ phiên cho người dân các vùng khác và du khách thập phương, đem lại nguồn thu ổn định, cải thiện cuộc sống của đồng bào, đồng thời góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Dao Tả Pan trong vùng Công viên địa chất Toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn.
- Làng người Hoa – Lũng Phìn
Thôn Lũng Phìn, xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn, có 11 dân tộc sinh sống, trong đó người Hoa chiếm 51%, còn lại là các dân tộc khác như Mông, Nùng, Tày, Lô Lô, Giấy, Pu Péo, Dao…
Người Hoa thường định cư ở những nơi đông đúc, thuận lợi cho việc làm ăn, sinh sống, như thị trấn, chợ búa…, và họ thường ở thành cụm, có khi đến vài chục hộ, bố trí nhà cửa theo kiểu mật tập, xương cá hoặc thành dãy phố. Bên trong mỗi cụm, mỗi dãy phố đó các hộ người Hoa lại thường bố trí, sắp xếp ở gần nhau theo dòng họ. Tuy nhiên cũng không hiếm trường hợp người Hoa ở xen trong các thôn bản người Nùng hay người Mông…
Do đã định cư lâu đời cùng các dân tộc bản địa khác nên nhìn chung lối sống, phong tục tập quán, kiến trúc nhà cửa, thôn bản… của cộng đồng người Hoa ở Lũng Phìn cũng đã có nhiều giao thoa, không có quá nhiều khác biệt rõ nét so với người Mông.
Tại Lũng Phìn người Hoa làm nhà theo dãy phố, dựa vào trục lộ 4C. Đa phần sinh sống bằng nghề buôn bán. Tuy vậy cũng có một số hộ gia đình làm nương, trồng ngô, sắn, tam giác mạch…, tức là cũng như đa phần những người dân bản địa khác. Họ ở trong các ngôi nhà kiến trúc cổ trình tường, vì kèo bằng gỗ, hai mái lợp ngói âm dương, nền đất nện… Hiện tại thôn Lũng Phìn còn giữ được 6 ngôi nhà cổ có tuổi đời hàng trăm năm như vậy.
Ấy vậy mà ở Lũng Phìn cũng có một khác biệt căn bản, đó là một ngôi chùa Quan Âm ra đời từ hơn 100 năm trước cùng với sự hình thành dãy phố buôn bán của người Hoa và một số người Việt. Họ thờ Phật, ước nguyện, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, sức khỏe, hạnh phúc và nhiều may mắn trong làm ăn, buôn bán.
Đến Lũng Phìn ngoài trải nghiệm văn hóa bản địa bạn còn có thể thưởng trà Shan tuyết Lũng Phìn, hoặc nếu đúng dịp sẽ được hòa mình vào chợ phiên Lũng Phìn – diễn ra mỗi tuần một lần nhưng tuần sau lại lùi một ngày so với tuần trước – một phiên chợ lùi đặc sắc.
- Nhà hàng Trung Kiên (Đang dự kiến bỏ vì nhà hàng dừng hoạt động)
- Cua chữ M
Với địa hình phân cắt mạnh mẽ từ rất cao đến rất thấp, Cao nguyên đá Đồng Văn từ lâu đã nổi tiếng với các đoạn đường đèo dốc, như dốc Bắc Sum từ huyện Vị Xuyên lên Cổng trời huyện Quản Bạ, dốc Thẩm Mã từ xã Vần Chải lên xã Lũng Thầu, dốc 9 khoanh từ thị trấn Phố Cáo lên xã Sủng Là cùng của huyện Đồng Văn… Còn đây là cua chữ M quanh co, mềm mại, kéo dài khoảng 2km từ xã Mậu Duệ, huyện Yên Minh lên xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn.
Theo hướng này, cùng với sự thay đổi đột ngột về độ cao địa hình, từ chỉ khoảng 300-400m lên 950-1.000m trên mực nước biển, là sự thay đổi cũng đột ngột không kém về thành phần đất đá, từ các loại đá cát kết, bột kết, sét kết sang các loại đá vôi, kéo theo sự thay đổi rất tương phản trong các kiểu dạng địa hình, từ thoai thoải, mềm mại sang gồ ghề hiểm trở, từ địa hình rửa trôi, bóc mòn sang địa hình karst độc đáo, ấn tượng, với các chóp nón karst sót trên bề mặt san bằng, karst dạng dãy, dạng chuỗi các kim tự tháp, mái nhà lệch, rừng đá… trên bề mặt san bằng karst 950-1.000m, từ các cánh đồng, thửa ruộng bậc thang đầy ắp nước đến các nương ngô ngút ngàn…
Cùng với những tương phản, đa dạng trong các kiểu loại di sản địa chất là các nền văn hóa bản địa, khác biệt nhưng bổ trợ lẫn nhau và cùng có chung một nét hài hòa, thân thiện với tự nhiên, môi trường. Người dân bản địa nơi đây, dù là người Tày, người Dao ở vùng đất thấp hay người Mông ở vùng đất cao, đều rất giỏi canh tác cả ruộng bậc thang lẫn các nương đá, hốc đá, và trong điều kiện nào cũng tìm được những giống cây trồng, vật nuôi thích hợp, đúng chất “đặc sản” như lúa trên các thửa ruộng bậc thang đủ nước, ngô hoặc tam giác mạch trên các nương đá thiếu nước, trâu hoặc ngựa ở các vùng đất thấp nhưng lại là bò hoặc dê ở các vùng núi cao, và chung cho cả hai vùng đất, ở hai bên cua chữ M, là những cây đào nở rộ những cánh hoa dầy dặn, thắm đượm mỗi độ xuân về.
- Nơi dòng sông ra đời (Ngã 3 hang Nà Luông)
Cùng thuộc huyện Yên Minh của Cao nguyên đá Đồng Văn, khu vực Ngàm Soọc-Nà Luông cũng là một nơi hội tụ phong phú các giá trị di sản địa chất. Hoạt động đứt gãy kết hợp với quá trình hòa tan, rửa lũa đá vôi trong điều kiện khí hậu nhiệt đới đã tạo nên ở đây nhiều cảnh quan độc đáo, như cụm chóp nón karst sót trên bề mặt san bằng ở cua chữ M, cảnh quan karst dạng dãy, dạng chuỗi các chóp nón kiểu kim tự tháp, kiểu mái nhà lệch… ở Phố Chợ, các hẻm vực ở Bó Mới, rừng đá ở Mậu Lệch…
Sự tương phản về địa chất, địa hình giữa đá vôi ở phía Bắc-Tây Bắc và các đá cát kết, bột kết, sét kết… ở phía Nam-Đông Nam còn tạo nên một hiện tượng đặc sắc nữa ở khu vực Bản Mạ-Nà Luông – sự ra đời của một dòng sông.
Tại đây, ở độ cao chỉ khoảng 300-400m trên mực nước biển so với địa hình chung 1.000-2.000m của vùng đá vôi ở phía Bắc-Tây Bắc thuộc phạm vi các huyện Đồng Văn-Mèo Vạc, hệ thống rất đồ sộ các hang Bản Mạ 1, Bản Mạ 2, Nà Luông…, chủ yếu là các hang ngang, phát triển mạnh mẽ, tập trung hầu hết nước dưới đất – có thể gọi một cách không quá là các dòng sông-hang ngầm – của cả vùng đá vôi kể trên, theo đứt gãy xuất lộ ra ở ranh giới với các đá cát kết, bột kết, sét kết kể trên, gọi là xuất lộ nước karst Nà Đé – đầu nguồn của một trong số rất ít các dòng sông trên Cao nguyên đá – sông Nhiệm.
Ở ranh giới địa chất đặc biệt kể trên, các giá trị văn hóa (sự khác biệt, tương tác giữa các cộng đồng người Mông, người Dao, người Tày), đa dạng sinh học (hệ thống các nương ngô, các ruộng bậc thang, rừng cây mộc miên…) ở đây cũng hết sức đặc sắc, mời gọi du khách đến tham quan, khám phá.
- Rừng chè shan tuyết cổ thụ Ngam La
Trên Cao nguyên đá Đồng Văn với trên 60% là các diện lộ đá vôi, Yên Minh là một huyện đặc biệt vì phần lớn diện tích của nó lại là các đá cát kết, bột kết, sét kết, thậm chí cả đá phun trào núi lửa, chỉ có một phần nhỏ ở phía Nam-Tây Nam là đá vôi. Mà các loại đá rất khác này cũng ngăn cách với nhau một cách rất rõ ràng, tương phản. Đá vôi thì tạo ra địa hình cao, gồ ghề, lởm chởm, trong khi các đá khác lại có địa hình thấp, thoải, uốn lượn mềm mại; lớp đất phủ trên đó cây cối có thể mọc được vì thế được tích tụ lại khá dầy. Các đặc điểm tự nhiên khác như nước mặt, nước dưới đất, thảm thực vật, khí hậu… vì thế cũng rất khác.
Trong huyện Yên Minh đặc biệt lại có xã Ngam La, diện tích gần 60 km2, dân số gần 4.000 người, trong đó 75% là người Dao. Từ bao đời nay người Dao ở đây đã bảo tồn, gìn giữ và khai thác một giống chè rừng gọi là chè Shan tuyết. Sự kết hợp hài hòa, tinh tế giữa các điều kiện đặc biệt về khí hậu, thời tiết, địa hình, chất đất và giống chè, cộng thêm với phương pháp chăm sóc, thu hái, chế biến thủ công truyền thống độc đáo đã tạo ra một sản phẩm chè có hương vị riêng, nổi tiếng trong và ngoài nước.
Du lịch phát triển kéo theo nhu cầu ngày càng tăng về chè Shan tuyết. Nắm bắt xu thế đó, xã Ngam La đang tích cực bảo tồn, mở rộng diện tích trồng chè. Hiện cả xã có 150ha, trong đó có đến 80ha chè cổ thụ 50-60 năm tuổi, tập trung ở các thôn Sa Lỳ, Nà Làu, Sủng Hòa, Nậm Noong… Tổng sản lượng đạt trên 450 tấn/năm, bình quân thu nhập từ chè đạt 50 triệu đồng/hộ/năm. Xã còn mở tuyến đường phục vụ du khách tham quan, mua sắm, thưởng thức chè Shan tuyết tại chỗ, giao lưu cùng các hộ làm chè.
Chè Shan tuyết Ngam La đã đạt tiêu chuẩn OCOP, góp phần tạo nên sự đa dạng và nâng tầm giá trị của Văn hóa Trà Việt. Nhiều hộ dân đã trở thành đối tác của CVĐC.
- Trạm thông tin Du Già
Trạm thông tin Du Khách Du Già, năm trên tuyến đường tỉnh 176 B, toạ độ 23,03730 B, 105,20688 Đ cách Trung tâm Thị Trấn Yên Minh 27 km, cách xã Mậu Duệ 15 km, toạ lạc trên đỉnh đồi Thông thuộc thôn Lùng Thàng của xã Lũng Hồ và giáp danh với thôn Nà Lầu của xã Ngam La, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang
Có chức năng nhiệm vụ cung cấp thông tin cho khách du lịch và kiểm tra thường xuyên các điểm di sản, hệ thống biển bảng, các điểm du lịch, công trình xây dựng ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường… xây dựng báo cáo chính quyền địa phương và Ban quản lý công viên địa chất toàn cầu có phương hướng giải quyết kịp thời.
– Địa chỉ: Thôn Nà Lầu, xã Ngam La, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang
– Trạm trưởng: Hoàng Đức Quản
– Điện thoại: 0382.491.788
– Email: Dugia.info@gmail.com
- Đồn Đường Thượng
Di tích đồn Đường Thượng và tường thành Lũng Hồ nằm ở xã Lũng Hồ, huyện Yên Minh, trên tỉnh lộ 176, cách ngã ba đi Đường Thượng và đi Lũng Hồ khoảng 500m. Đây là một trong nhiều công trình quân sự người Pháp đã xây trên Cao nguyên đá Đồng Văn kể từ năm 1887 khi họ bắt đầu chiếm đóng Hà Giang.
Đồn được xây và sử dụng trong thời gian 1935-1940, trong một thung lũng, xung quanh là các dãy núi đá vôi, trên một khu đất nổi cao hình mai rùa ở độ cao 742m trên mực nước biển.
Di tích còn lại gồm có tường bao, một số dãy nhà ở phía Tây và tháp canh ở phía Đông. Tường bao cao 2,5m, rộng 50-70cm, dài gần 200m, được bố trí các ụ bắn và lỗ châu mai để quan sát.
Cách đồn Đường Thượng khoảng 2km, tường thành Lũng Hồ nằm trên một yên ngựa nối hai quả núi đá vôi, án ngữ con đường độc đạo Lũng Hồ-Yên Minh, khi có biến sẽ báo về đồn.
Vật liệu xây đồn và tường thành là đá vôi nhiều kích cỡ, được lấy tại chỗ và các khu vực xung quanh. Vữa xây là cát pha với vôi nhưng có độ kết dính cao, bền chắc và bảo vệ tốt các công trình và hoạt động phía bên trong.
Di tích đồn Đường Thượng và tường thành Lũng Hồ hiện được xã Lũng Hồ quản lý và Sở VHTTDL Hà Giang lập hồ sơ, kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Cùng với các giá trị di sản địa chất như cảnh quan karst cụm đỉnh-lũng, vách đứt gãy, thung lũng karst, hệ thống hang động karst Lũng Hồ-Đường Thượng…, di tích là một điểm dừng chân lý thú trên Cao nguyên đá.
- Toàn cảnh Lũng Hồ
Xã Lũng Hồ, huyện Yên Minh, ở độ cao 750-950m, cũng là một trong những khu vực tích hợp phong phú các loại hình di sản của Cao nguyên đá.
Ở đây, sự kết hợp giữa quá trình karst hóa với các hoạt động đứt gãy, rửa trôi, bóc mòn, xâm thực trong điều kiện khí hậu phân hóa theo độ cao đã tạo ra các kiểu dạng địa hình karst rất độc đáo trên các loại đá vôi hình thành khoảng 360-260 triệu năm trước, thể hiện một cách khá điển hình một số giai đoạn của một chu trình tiến hóa karst. Cảnh quan karst dạng thành lũy với các chóp nón mới nhú kết nối với nhau thành dãy thể hiện giai đoạn karst trẻ; cảnh quan karst dạng cụm lũng-đỉnh, với các đỉnh dạng chóp nón kết nối với nhau bởi các yên ngựa, bao lấy các lũng cũng dạng nón nhưng úp ngược cùng các hố sụt ở giữa thể hiện giai đoạn karst trưởng thành… Một dạng địa hình karst nữa cũng rất phổ biến ở khu vực này là các hang động, như Thẩm Lin, Thẩm Hen, Bản Án 1, Nong Khát, Khau Của, Nậm Luông, Bó Rạn, Ru Ruôm, Chủng Pả 1 và 2…
Cùng với phong phú các di sản địa chất, các giá trị di sản văn hóa ở khu vực này cũng rất đậm đà bản sắc. Cộng đồng dân cư hầu hết là người Mông sống tập trung thành một số bản. Họ nổi tiếng với tri thức và kỹ năng mưu sinh, giúp họ khai thác một cách bền vững nguồn tài nguyên đất terrarosa – một loại đất mầu đỏ sẫm hình thành trong quá trình hòa tan, rửa lũa đá vôi – vô cùng mầu mỡ để trồng lúa, ngô và các loại rau mầu khác.
Cảnh sắc thiên nhiên hùng vỹ, các làng bản yên bình với đậm đà kiến trúc truyền thống (nhà trình tường, hàng rào đá…), các loại hoa trái đặc sản mùa nào thức nấy… sẽ luôn chào đón du khách đến với Lũng Hồ.
- Toàn cảnh hẻm vực Nậm Lang
Các vận động nâng hạ diễn ra mạnh mẽ trong lòng Trái Đất từ vài chục triệu năm trở lại đây, cùng với quá trình karst hóa chủ yếu đang ở giai đoạn trẻ trong điều kiện nhiệt đới, đã để lại trên Cao nguyên đá Đồng Văn nhiều kiểu dạng cảnh quan karst đặc sắc, như karst dạng dãy, dạng chóp nón, lũng-đỉnh, kim tự tháp, rừng đá, hoang mạc đá, hang động… và đặc biệt là các hẻm vực karst hùng vĩ, trong đó nổi tiếng nhất là hẻm vực Tu Sản trên sông Nho Quế sâu đến 700-800m.
Kéo dài hàng trăm mét và chỉ sâu chừng 400m, hẻm vực Nậm Lang dọc theo suối Nậm Lang ở huyện Yên Minh cũng đem lại những cảm giác mạnh không kém, có lẽ một phần là do suối Nậm Lang hẹp hơn nhiều so với sông Nho Quế, đến mức đứng bên này tưởng như có thể với tay chạm vào vách bên kia của hẻm vực.
Hẻm vực Nậm Lang được hình thành do một đứt gãy phương á kinh tuyến cắt thẳng đứng qua khối đá vôi vốn đã tồn tại từ hàng trăm triệu năm trước, để lại các mặt trượt rộng lớn rất rõ nét ở hai bên vách đứt gãy, gây dập vỡ mạnh khối đá vôi ở cả hai bên cánh đứt gãy, tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình rửa trôi, bóc mòn, phong hóa sau này, dần dần tạo nên các kiểu dạng địa hình karst đa dạng, phong phú kể trên.
Cũng như hẻm vực Tu Sản trên sông Nho Quế, hẻm vực Nậm Lang thực sự là một “bảo tàng thiên nhiên”, minh họa sinh động các quá trình, hiện tượng, biến cố, cấu trúc địa chất, kiểu dạng địa hình vô cùng đa dạng, phức tạp và vì thế mà vô cùng quý giá mà Mẹ Thiên nhiên đã ban tặng cho huyện Yên Minh nói riêng và Cao nguyên đá Đồng Văn nói chung.
- HTX dệt người Tày
Làng Khác A, xã Du Già, huyện Yên Minh nổi tiếng ở vẻ đẹp bình yên của những ruộng lúa, con suối trong thung lũng được bao bọc bởi các dãy núi đá vôi vách dốc đứng. Đây là nơi sinh sống của người Tày bản địa, sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng có một số nghề phụ, vừa để lưu truyền các truyền thống văn hóa đồng thời cũng phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Phụ nữ dệt vải, đan lát. Đàn ông đục loỏng, làm khung cửi, đan phên, vách ngăn nhà, đan cót phơi thóc, lúa và một số đồ dùng khác như giỏ, thúng, đồ đánh cá, nón lá…
Ngày xưa phụ nữ Tày tự dệt vải để làm quần áo và lễ phục. Nhà nào cũng có vườn cây bông, các dụng cụ kéo bông thành sợi, đóng ống, quay suốt, khung cửi… Phụ nữ Tày khi còn con gái phải may váy, áo cho mình và chuẩn bị đồ dùng khi lấy chồng. Khi làm mẹ họ phải lo áo quần cho chồng con. Chiếc khăn tay cô gái thêu tặng cho người yêu là nơi gửi gắm tâm tình của họ, đồng thời cũng để khoe tài dệt may, thêu thùa của mình. Con gái trưởng thành đi lấy chồng nhất thiết phải có bao dao kết bằng dây dao
(thái tắn) và chiếc túi gai nhỏ xinh đựng đồ trang sức. Xã hội phát triển, hàng công nghiệp nhiều. Nghề dệt truyền thống có nguy cơ mai một, chỉ còn một số ít người còn giữ được nghề. Với mong muốn giữ gìn nghề dệt truyền thống, năm 2013 UBND xã Du Già đã thành lập Hợp tác xã dệt thổ cẩm truyền thống tại làng Khác A, hỗ trợ các nghệ nhân duy trì, phát triển nghề, giúp họ yên tâm dệt ra những sản phẩm đậm đà bản sắc và truyền nghề lại cho thế hệ kế tiếp. Với bàn tay cần mẫn, khéo léo, óc sáng tạo, các nghệ nhân đang làm ra những sản phẩm đa dạng, tinh tế, mang đậm bản sắc của núi rừng như khăn quàng, váy, vỏ gối. địu…, đáp ứng nhu cầu của người dân và du khách, đem lại nguồn thu nhập ổn định cho các thành viên Hợp tác xã
- Thác núi Ba Tiên
Xuất phát từ Thị trấn Mèo Vạc đến đây, nếu như ở nửa đầu hành trình, ba bề bốn bên đều là núi đá, là cua, là đèo dốc, các hẻm vực sâu, mầu xám nhiều hơn mầu xanh, tóm lại tưởng như tất cả những gì liên quan đến nước đều rất xa, rất hiếm, thì càng gần đến Du Già, một xã thuộc huyện Yên Minh, nơi người Tày sinh sống, mầu xanh càng mát mắt hơn, không khí có vẻ cũng ẩm ướt hơn. Có vẻ như du khách đang về gần đến nơi mà môi trường sống thân thuộc hơn, với ruộng lúa, cọn nước, tiếng suối chảy, nhà sàn, đĩa bánh mỳ trứng ốp la, ly cà phê buổi sớm… Như đang từ trạng thái háo hức nhưng vẫn hơi chờn chợn, nghộp trở lại trạng thái thư giãn, thoải mái, “xả stress” đúng nghĩa. Trong bối cảnh ấy, thác núi Ba Tiên đúng là một món “quà tặng” nhẹ nhàng.
Rộng chừng 5m, cao chỉ chừng 7-8m nhưng lại đã chia đến vài ba bậc, chen giữa và dưới chân thác là những hồ nước nhỏ, ở đây hầu như không có gì thách thức bạn cả. Chỉ một vài bước leo trèo không quá khó, và “ùm”, thế là tha hồ vùng vẫy trong làn nước trong. Nước đấy, ở ngay bên cạnh và trong lòng bạn, đủ đầy, mát lạnh, và đặc biệt rất sạch vì chảy tít từ trên núi xuống – núi Ba Tiên, và vì thế cũng là tên thác.
Tên thác là thế nhưng dòng suối lại được gọi là Thâm Luông – tiếng Tày nghĩa là hang lớn. Có thể gần đây có hang lớn chăng? Có thể lắm chứ, vì đá vôi, sét vôi hình thành nên dãy núi Ba Tiên ngày nay vốn được hình thành trong môi trường biển nông, ấm, yên tĩnh từ hơn 500 triệu năm trước, nay đã bị biến chất ít nhiều, và cảnh quan xung quanh thác Ba Tiên đang là cảnh quan karst trưởng thành, điều kiện lý tưởng để hình thành các hang lớn trong khu vực.
Thả mình trong dòng nước và lắng nghe câu chuyện tình dang dở giữa nàng Ba Tiên với chàng trai nghèo nhưng có tài thổi sáo, có lẽ là một trong những lý do mà thác nước là điểm hẹn của các cặp trai gái trong vùng và gần đây đang trở thành điểm đến khá “hot” của nhiều du khách.
- Rừng Voọc Mũi hếch – Cổng chào Du Già
Vườn quốc gia Du Già được thành lập năm 2015 trên cơ sở sáp nhập Khu bảo tồn thiên nhiên Du Già và Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Voọc mũi hếch Khau Ca. Tổng diện tích 15.006,3 ha trên địa bàn ba xã: Tùng Bá, huyện Vị Xuyên; Minh Sơn, huyện Bắc Mê; và Du Già, huyện Yên Minh, tất cả đều thuộc tỉnh Hà Giang. Phần lớn (14.068 ha, chiếm 93,7%) diện tích Vườn quốc gia nằm ở xã Du Già, vì thế là một bộ phận hữu cơ của Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn. Vườn quốc gia Du Già là khu vực tự nhiên có tính đa dạng sinh giới cao. Tại đây có 1.061 loài thực vật bậc cao có mạch của 6 ngành thực vật (chiếm 85,71% số ngành tại Việt Nam), 318 loài động vật có xương sống trên cạn, với 72 loài thú, 162 loài chim, 84 loài bò sát và lưỡng cư. Trong số này có 35 loài quý hiếm, đặc biệt là voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus). Voọc mũi hếch là loài đặc hữu hẹp, chỉ thấy ở vùng Đông Bắc Việt Nam, được xếp vào một trong 25 loài linh trưởng bị đe dọa tuyệt chủng cao nhất toàn cầu, mức “rất nguy cấp – CR” cả trong Sách đỏ Việt Nam lẫn Danh lục đỏ thế giới (IUCN). Voọc mũi hếch có lông phần lớn màu đen nhưng phầncánh tay, đùi, mặt và đầu màu trắng kem còn cổ họng màu da cam. Hiện tại, quần thể voọc mũi hếch ở Vườn quốc gia Du Già có khoảng 108-113 con,chiếm gần 50% tổng số voọc mũi hếch của Việt Nam. Để bảo tồn và nhân rộng, giúp voọc mũi hếch khỏi nguy cơ tuyệt chủng, ngay sau khi phát hiện ra chúng tại Hà Giang, Tổ chức bảo tồn động, thựcvật hoang dã quốc tế (FFI) đã phối hợp với UBND tỉnh và Chi cục Kiểm lâm triển khai dự án bảo tồn voọc mũi hếch. Số lượng voọc mũi hếch vì thế đãtăng lên đáng kể, riêng tại rừng đặc dụng Khau Ca, từ 60 con phát hiện năm 2002 đến nay đã tăng lên 144-160 con. Vườn quốc gia Du Già trên Cao nguyên đá Đồng Văn không chỉ là nơi lưu giữ những giá trị sinh thái với các loài động thực vật đặc hữu. Đây còn là nơilưu giữ những giá trị văn hóa bản địa đậm đà bản sắc, như lễ cấp sắc, lễ cúng cơm mới, lễ hội cầu mùa, lễ hội gầu tào, chợ phiên, chợ tình…, là những nguồn tài nguyên quan trọng góp phần bảo tồn và phát huy giá trịcủa Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn.
- Nguồn: Công viên đia chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn
- ———————————
- Liên hệ đặt tour và đặt vé:
- Trung tâm TTXTDL Hà Giang
- Số 200 Trần Phú, TP Hà Giang
- Hotline: 1900561276
- #discoverhagiang
- #ubuk