> Huyền thoại chợ tình Khau Vai – Discover Hà Giang
Đi đâu

Huyền thoại chợ tình Khau Vai

Cao nguyên đá Đồng Văn, nơi địa đầu xa xôi của Tổ quốc, rừng núi đá bạt ngàn, lúc nào cũng như bồng bềnh, ẩn hiện trong những tấm voan mây trắng xóa.  Tháng 3, vào độ cuối xuân, vẫn còn cái rét nàng Bân, nhưng ở tận Khau Vai, mùa Đông và mùa Xuân chẳng hề rõ rệt, gió đại ngàn vẫn ù ù thổi, từng hốc đá mưa xuân có nước, nên đá xanh rêu, cây cối cũng nhấp nhô những chồi non tươi tốt…không biết từ bao giờ, nơi đây cứ vào tối 26, rạng sáng ngày 27 tháng 3 (âm lịch) hàng năm, trai gái trong thôn, ngoài thôn, khắp trong vùng lại tụ họp về trên mảnh đất Khau Vai để tìm gặp nhau, để kết thành đôi lứa. Người ta gọi ngày đó là: CHỢ TÌNH KHAU VAI .

Đã từ rất lâu, người già ở Khau Vai thường kể lại cho con cháu nghe rằng: Ở Khâu Vai có đỉnh đèo Mây cao lắm, gió lại thổi về đó rất nhiều, những ngọn gió mát lành phóng túng, mây cũng thường chia ra những tầng thấp, tầng cao bay lòa xòa trên đỉnh đèo. Ngày xưa ấy, mỗi dân tộc thường sinh sống thành những luổng* riêng biệt, giữa các luổng tuy sống cùng một giải đất của Cao nguyên đá Đồng Văn, nhưng mỗi luổng lại có những quy định riêng, phong tục tập quán riêng.

Ngày đó, ở Mèo Vạc có một gia đình nông dân nghèo người Nùng có 3 người con trai đã đến tuổi trưởng thành. Người con trai út đẹp trai, khoẻ mạnh, hát hay, thổi sáo giỏi, chăm chỉ ruộng nương, giỏi đan lát, giỏi săn bắn. Chàng được dân bản gọi là chàng Ba. Tiếng sáo, tiếng hát của chàng Ba làm biết bao cô gái gần xa đem lòng thương nhớ. Tài săn bắn của chàng khắp trai trong ngoài luổng đều phải ngưỡng mộ. Ở nhà Tộc trưởng người Giáy luổng bên có nàng Út xinh đẹp như hoa rừng cũng đến tuổi cập kê, ngày ngày thích ra ngắm mình bên bờ suối. Nàng Út có giọng hát hay. Tiếng hát của nàng trong trẻo vút cao bay qua con núi, con sông, con suối. Nàng Út đẹp như con chim lửa đang vào mùa kết bạn.

Lễ hội Lùng Tùng** năm đó, cũng như các chàng trai cô gái trong vùng, nàng Út và chàng Ba theo bạn bè xuống núi tham gia lễ hội. Những làn điệu sli của các cô gái, chàng trai làm cho hoa xuân thêm rực rỡ, chim rừng thêm ca vui.

– Mặt trời lên nắng chói Trang

Giờ này gặp em bên núi

Chưa muộn, cho anh về cùng…

 

– Nhà anh ở gần hay xa

Anh không chê em xấu, không quản ngại đèo cao

Em chỉ sợ,

Cá uống nước nhiều quên suối

Ai tin lời anh nói.

 

Chàng Ba gặp Nàng Út và rồi yêu nhau qua lời sli đó. Những ngày không gặp nhau, nàng Út lại hướng về phía luổng nơi chàng Ba ở, mà hát:

Đêm khuya ngủ chẳng được say

Nghe chim khảm khắc nó bay gọi đàn

Chim kia còn biết gọi đàn

Buồng không, bóng lẻ, dạ vàng nấu nung

Ai ơi, giải hộ cơn buồn

Má đào ướt đẫm lệ nguồn nhớ thương…

 

Họ yêu nhau say đắm, tình trong như nước suối nguồn. Nhưng hai người yêu nhau cũng có nghĩa đã phạm phải quy định của dân tộc mình, đó là người dân tộc nào thì sẽ lấy vợ hoặc chồng của người dân tộc đó, không được phép lấy người ngoài. Vì vậy, cha mẹ, dòng họ hai bên không cho họ yêu nhau, ngăn cấm đôi trai gái đến với nhau vì họ không cùng con ma, không cùng phong tục tập quán. Con trai người Nùng không thể lấy con gái người Giáy làm vợ.

Đêm trăng cao nguyên thật sáng, thật trong, tiếng hát u buồn của nàng Út vượt qua núi cao, qua thung sâu:

Chàng đẹp như rắn hoa mai

Như con trĩ bạch theo vời gió mây

Như trăng mới mọc đầu cành

Như cây cổ thụ trong ngàn núi xanh

Cờ đào cuộn gió phương xa

Lòng em ngây ngất biết là bao nhiêu.

 

Hát xong, nàng Út đứng mãi để chờ đợi vu vơ, mỗi lúc nàng càng cảm thấy mình lẻ loi một cách lạnh lùng.

Và rồi, từ phía xa bên núi, tiếng sáo của chàng Ba cũng bu buồn hát theo:

Yêu thương xiết kể bao nhiêu

Yêu thương đến nỗi sớm chiều quên ăn

Sớm chiều mấy bữa quên ăn

Ngồi mơ cái vẻ trắng xinh hơn đời…

 

Đêm đó, đôi trai gái đã bỏ luổng, bỏ gia đình trốn lên đèo Mây để được bên nhau, để được yêu nhau. Vì chưa có lễ ăn hỏi, chưa có cưới xin, chưa làm cái lễ nhập ma nên chàng Ba và nàng Út vẫn chưa thể sống chung cùng một mái nhà. Họ dựng hai túp lều bên hai bờ khe núi gần sát với nhau để sáng ngủ dậy được nhìn thấy nhau, để đêm về hát cho nhau nghe những câu hát về tình yêu thương đôi lứa…

Thấy con gái bỏ nhà đi, gia đình nàng Út cho rằng chàng Ba đã rủ con gái mình bỏ nhà. Họ mang cung tên, gậy gộc kéo tới nhà chàng Ba để đòi lại con gái. Còn gia đình chàng Ba cũng nghĩ rằng, chính con trai mình đã bị con gái Giáy bỏ bùa yêu nên mới bỏ nhà ra đi. Cuộc chiến giữa hai bên đã diễn ra.

Cuộc chiến giữa hai gia đình, hai dòng họ và hai dân tộc Nùng và Giáy diễn ra bởi mối tình giữa chàng Ba và nàng Út. Máu đã đổ, người thân hai dòng họ đã bị thương qua mỗi lần xô xát. Đứng trên đèo Mây, đôi trai gái nhìn thấy hết những gì mà người thân của họ đang làm. Thương cha, thương mẹ, thương dân bản hai luổng bỗng trở nên thù hận nhau chỉ vì tình yêu của mình nên chàng Ba và nàng Út ngậm ngùi, nuốt nước mắt chia tay trở về nhà để mong hàn gắn lại tình làng bản, tình đoàn kết giữa hai dân tộc. Trước khi chia tay, đôi trai gái đã cắt máu thề. Họ hẹn với nhau, dù không lấy được nhau nhưng mỗi năm, đến tối ngày 26 tháng 3 (ngày chia tay) sẽ gặp lại nhau tại đèo Mây để sửa sang lại hai túp lều và hát cho nhau nghe, kể với nhau những thầm kín ấp ủ trong lòng trong suốt một năm xa nhau để lo làm ăn sinh sống, lo xây dựng mái ấm gia đình riêng… Họ tâm tình, ca hát hết đêm rồi hết ngày hôm sau. Đêm hôm sau, khi ông mặt trời lên, họ lại chia tay trở về bản cùng hương vị ngọt ngào của tình yêu muôn thuở.

Thời gian đong đầy bằng mỗi năm một lần gặp lại, đôi trai gái năm nào cũng đã trở thành người già trong bản. Ngày cuối cùng của cuộc đời, họ lại đến với nhau. Họ tìm đến gốc cây rừng và ngồi bên hòn đá thề năm xưa, ôm chặt nhau cùng đi vào cõi vĩnh hằng. Rạng sáng ngày 27 tháng 3 âm lịch, người dân trong vùng không nhìn thấy họ đâu nữa, chỉ nhìn thấy bên hòn đá, xuất hiện hai cây thân leo bám chặt vào nhau.

Để tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ trước mối tình thủy chung của chàng Ba và nàng Út, dân khắp các luổng người dân tộc Giáy và dân tộc Nùng đã dựng hai miếu thờ là “miếu Bà” và “miếu Ông” ngay chính vị trí hai chiếc lán của chàng Ba và nàng Út để tưởng nhớ về mối tình thủy chung, son sắt. Mảnh đất nơi họ sinh sống được gọi là Khau Vai***. Chợ tình Khau Vai cũng có tự ngày ấy, và cho đến tận bây giờ.

*********

Theo dòng lịch sử, hơn một thể kỷ đã đi qua, nhưng trên mảnh đất Mèo Vạc, dấu tích của câu chuyện tình “Ngưu Lang Trúc Nữ” của miền Cao nguyên đá như vẫn còn hiện hữu đâu đây.

Ngày nay, đến với xã Khâu Vai****, huyện Mèo Vạc của tỉnh Hà Giang. Du khách sẽ được nhìn thấy miếu Ông, miếu Bà vẫn còn đó. Trai gái khắp nơi, không kể ngày lễ, vẫn tới đây để cầu được tình duyên thuận lợi, hạnh phúc đong đầy. Gốc cây cổ thụ năm xưa chàng Ba và nàng Út ngồi vẫn còn đây. Mê cung đá, nơi tái hiện lại toàn cảnh câu chuyện tình, hình ảnh tượng đá chàng Ba, nàng Út u buồn, thương nhớ và sự hỗn chiến của hai bên, cũng như hình ảnh chàng Ba và nàng Út bên nhau hạnh phúc trong những phút giây cuối của cuộc đời, vẫn sừng sừng với thời gian, mặc cho vạn vật xoay chuyển. Và nước mắt thương nhớ của hai người, trong những ngày xa nhau, đã tạo thành con sông hiền hòa muôn đời không bao giờ cạn, đó chính là dòng sông Nho Quế.

Chợ Tình Khau Vai, cứ đến hẹn lại về. Hàng năm, vào ngày 26 tháng 3 âm lịch, giữa muôn trùng của vùng cao nguyên đá, người dân khắp mọi miền lại tụ hội về Khau Vai. Họ đứng trước “miếu Bà”, “miếu Ông” rêu phong phủ kín, để nghe và nghĩ về một câu chuyện tình xa xưa. Người đến chợ không mua, không bán. Có người chỉ mong gặp lại bạn xưa, hay chia nhau một chén rượu thề, thả lòng mình trong những câu hát giao duyên. Tất cả đều được say trong men say của rượu, của tình người, tình yêu đôi lứa./.

  • Tác giả: Vừ  Mai Hương ( PGĐ TTXTDL)
  • ———————————
  • Liên hệ đặt tour và đặt vé:
  • Trung tâm TTXTDL Hà Giang
  • Số 200 Trần Phú, TP Hà Giang
  • Hotline: 1900561276
  • #discoverhagiang
  • #ubuk
  •